Báo cáo kinh tế vĩ vô Việt Nam - Tháng 4/2011: Khả năng phục hồi
Số trang: 20
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.62 MB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Với kết cấu nội dung gồm 5 phần, bài "Báo cáo kinh tế vĩ vô Việt Nam - Tháng 4/2011: Khả năng phục hồi" trình bày về triệu chứng – bức tranh toàn cảnh về nền kinh tế Việt Nam đến cuối tháng 3/2011; nguyên nhân – những đặc điểm đặc thù của kinh tế Việt Nam và thế giới là nguyên nhân dẫn tới tình trạng hiện tại;... Mời các bạn cùng tham khảo để nắm bắt vấn đề.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo kinh tế vĩ vô Việt Nam - Tháng 4/2011: Khả năng phục hồi CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN NHẬT BẢN JAPAN SECURITIES INCORPORATED Báo cáo kinh tế vĩ mô Việt Nam – Tháng 4/2011 KHẢ NĂNG PHỤC HỒIĐầu năm 2011, các nhà đầu tư trong nước và quốc tế đều lo ngại về khả năng nền kinh tếViệt Nam có thể sụp đổ. Với lý do đó, mục đích của báo cáo là đưa đến cho nhà đầu tưthêm những cơ sở để ra quyết định, bằng việc cân nhắc về khả năng sụp đổ này, dựa trênsự tiếp cận từ khía cạnh vĩ mô. Cấu trúc báo cáo như sau: Phần 1: Triệu chứng– bức tranh toàn cảnh về nền kinh tế Việt Nam đến cuối tháng 3/2011 Phần 2: Nguyên nhân – những đặc điểm đặc thù của kinh tế Việt Nam và thế giới, là nguyên nhân dẫn tới tình trạng hiện tại Phần 3: Định hướng điều trị - mô tả định hướng, những giải pháp chính phủ Việt Nam đã và đang sử dụng để giải quyết tình trạng hiện tại cũng như đạt tới vị trí ổn định bền vững. Phần 4: Khả năng phục hồi –những nhân tố cản trở quá trình thực hiện chính sách của Việt Nam. Phần 5: Kết luận - kết luận về khả năng sụp đổ của kinh tế Việt Nam, hướng đi của lạm phát, lãi suất và khả năng việt nam đạt tới vị trí bền vững. Tác giả: Nguyễn Tiến Đức – Senior Analyst Vietnam Macro Economy Report Tháng 4/2011 Tóm tắt Năm 2010, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã đạt được sự phục hồi ấn tượng sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thế nhưng ở Việt Nam, tình hình kinh tế lại chuyển biến xấu và sự việc đã trở nên rất nghiêm trọng tại thời điểm kết thúc quí I/2011. Dường như Việt Nam đã đánh mất sự ổn định và cân bằng cần thiết để phát triển kinh tế. Quan trọng hơn, Việt Nam đã đánh mất vị thế cạnh tranh của mình so với các quốc gia láng giềng trên nhiều phương diện. Dòng tiền đầu tư quốc tế, và thậm chí trong nước tại Việt Nam thu hẹp nghiêm trọng. Giới đầu tư quốc tế quan ngại về sự sụp đổ của kinh tế Việt Nam. Trước sức ép của sự đổ vỡ, trong một thời gian ngắn, chính phủ đã quyết định áp dụng chính sách tài khóa, tiền tệ thắt chặt và một loạt biện pháp vĩ mô khác nhằm tái lập lại sự ổn định. Nhóm chính sách này tạo ra phản ứng trái ngược trong cộng đồng. Trong lúc nhiều thành phần của nền kinh tế nghi ngờ về hiệu quả hoạt động của chính sách thì những tổ chức lớn, đặc biệt là World Bank lại có cái nhìn lạc quan hơn. Họ cho rằng Việt Nam đang đi đúng hướng. Nhận định lạc quan trên là hoàn toàn có cơ sở nếu chúng ta nhìn sâu hơn vào nguyên nhân gây ra tình trạng hỗn loạn hiện tại. Mọi việc có thể bắt nguồn từ mục tiêu trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam được đưa ra năm 2001: “bằng mọi giá phải đưa Việt Nam thoát nghèo”. Để làm được điều này, chính phủ việt nam phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn là nâng mức thu nhập cá nhân lên trên 1000USD từ mức 405 USD năm 2000. Sau 10 năm, Việt Nam đã thành công, nhưng một thập kỷ đánh đổi sự ổn định và bền vững để lấy tăng trưởng nhanh đã tạo ra tình trạng mất thăng bằng trầm trọng trong nhiều lĩnh vực như Công nghiệp, tín dụng, thị trường vàng và ngoại hối và nghiêm trọng hơn cả là đánh mất niềm tin của dân chúng vào đồng nội tệ. Những đặc điểm này tạo ra hệ thống tạo lạm phát kép đặc biệt theo hai chu trình trong đó một chu trình là lạm phát chi phí đẩy và một chu trình đặc biệt diễn ra trong hệ thống tín dụng – tiền tệ - tiết kiệm. Biến động tiêu cực của thời kỳ khủng hoảng kinh tế và hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu trở thành tác nhân kích hoạt và khuếch đại chuỗi tạo lạm phát, đưa an ninh kinh tế việt nam vào trạng thái bị đe dọa. Dựa vào những gì đã thực hiện, có thể thấy rằng Chính phủ Việt Nam đã nhận ra sự yếu kém trong cấu trúc kinh tế hiện tại từ rất lâu. Nhiều hành động mang tính chất dài hạn đã được thực hiện từ rất sớm với mục đích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng nhằm đạt tới một vị thế ổn định hơn. Những biện pháp hiện tại tập trung nhằm mục đích bẻ gãy vòng xoáy lạm phát bằng việc kiểm soát thị trường ngoại hối, vàng và tiết kiệm. Trên phương diện lý thuyết2 Nguyễn Tiến Đức – JSI Analyst Department Vietnam Macro Economy Report Tháng 4/2011 giải pháp chống lạm phát trên là hợp lý nhưng mới chỉ ở giai đoạn định hướng và thực thi bước đầu. Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng rằng Chính phủ Việt Nam sẽ thành công trong việc bẻ gãy chuỗi lạm phát hiện tại trong ngắn hạn nếu họ thực hiện kế hoạch trên một cách kiên trì và dứt khoát. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo kinh tế vĩ vô Việt Nam - Tháng 4/2011: Khả năng phục hồi CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN NHẬT BẢN JAPAN SECURITIES INCORPORATED Báo cáo kinh tế vĩ mô Việt Nam – Tháng 4/2011 KHẢ NĂNG PHỤC HỒIĐầu năm 2011, các nhà đầu tư trong nước và quốc tế đều lo ngại về khả năng nền kinh tếViệt Nam có thể sụp đổ. Với lý do đó, mục đích của báo cáo là đưa đến cho nhà đầu tưthêm những cơ sở để ra quyết định, bằng việc cân nhắc về khả năng sụp đổ này, dựa trênsự tiếp cận từ khía cạnh vĩ mô. Cấu trúc báo cáo như sau: Phần 1: Triệu chứng– bức tranh toàn cảnh về nền kinh tế Việt Nam đến cuối tháng 3/2011 Phần 2: Nguyên nhân – những đặc điểm đặc thù của kinh tế Việt Nam và thế giới, là nguyên nhân dẫn tới tình trạng hiện tại Phần 3: Định hướng điều trị - mô tả định hướng, những giải pháp chính phủ Việt Nam đã và đang sử dụng để giải quyết tình trạng hiện tại cũng như đạt tới vị trí ổn định bền vững. Phần 4: Khả năng phục hồi –những nhân tố cản trở quá trình thực hiện chính sách của Việt Nam. Phần 5: Kết luận - kết luận về khả năng sụp đổ của kinh tế Việt Nam, hướng đi của lạm phát, lãi suất và khả năng việt nam đạt tới vị trí bền vững. Tác giả: Nguyễn Tiến Đức – Senior Analyst Vietnam Macro Economy Report Tháng 4/2011 Tóm tắt Năm 2010, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã đạt được sự phục hồi ấn tượng sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thế nhưng ở Việt Nam, tình hình kinh tế lại chuyển biến xấu và sự việc đã trở nên rất nghiêm trọng tại thời điểm kết thúc quí I/2011. Dường như Việt Nam đã đánh mất sự ổn định và cân bằng cần thiết để phát triển kinh tế. Quan trọng hơn, Việt Nam đã đánh mất vị thế cạnh tranh của mình so với các quốc gia láng giềng trên nhiều phương diện. Dòng tiền đầu tư quốc tế, và thậm chí trong nước tại Việt Nam thu hẹp nghiêm trọng. Giới đầu tư quốc tế quan ngại về sự sụp đổ của kinh tế Việt Nam. Trước sức ép của sự đổ vỡ, trong một thời gian ngắn, chính phủ đã quyết định áp dụng chính sách tài khóa, tiền tệ thắt chặt và một loạt biện pháp vĩ mô khác nhằm tái lập lại sự ổn định. Nhóm chính sách này tạo ra phản ứng trái ngược trong cộng đồng. Trong lúc nhiều thành phần của nền kinh tế nghi ngờ về hiệu quả hoạt động của chính sách thì những tổ chức lớn, đặc biệt là World Bank lại có cái nhìn lạc quan hơn. Họ cho rằng Việt Nam đang đi đúng hướng. Nhận định lạc quan trên là hoàn toàn có cơ sở nếu chúng ta nhìn sâu hơn vào nguyên nhân gây ra tình trạng hỗn loạn hiện tại. Mọi việc có thể bắt nguồn từ mục tiêu trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam được đưa ra năm 2001: “bằng mọi giá phải đưa Việt Nam thoát nghèo”. Để làm được điều này, chính phủ việt nam phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn là nâng mức thu nhập cá nhân lên trên 1000USD từ mức 405 USD năm 2000. Sau 10 năm, Việt Nam đã thành công, nhưng một thập kỷ đánh đổi sự ổn định và bền vững để lấy tăng trưởng nhanh đã tạo ra tình trạng mất thăng bằng trầm trọng trong nhiều lĩnh vực như Công nghiệp, tín dụng, thị trường vàng và ngoại hối và nghiêm trọng hơn cả là đánh mất niềm tin của dân chúng vào đồng nội tệ. Những đặc điểm này tạo ra hệ thống tạo lạm phát kép đặc biệt theo hai chu trình trong đó một chu trình là lạm phát chi phí đẩy và một chu trình đặc biệt diễn ra trong hệ thống tín dụng – tiền tệ - tiết kiệm. Biến động tiêu cực của thời kỳ khủng hoảng kinh tế và hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu trở thành tác nhân kích hoạt và khuếch đại chuỗi tạo lạm phát, đưa an ninh kinh tế việt nam vào trạng thái bị đe dọa. Dựa vào những gì đã thực hiện, có thể thấy rằng Chính phủ Việt Nam đã nhận ra sự yếu kém trong cấu trúc kinh tế hiện tại từ rất lâu. Nhiều hành động mang tính chất dài hạn đã được thực hiện từ rất sớm với mục đích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng nhằm đạt tới một vị thế ổn định hơn. Những biện pháp hiện tại tập trung nhằm mục đích bẻ gãy vòng xoáy lạm phát bằng việc kiểm soát thị trường ngoại hối, vàng và tiết kiệm. Trên phương diện lý thuyết2 Nguyễn Tiến Đức – JSI Analyst Department Vietnam Macro Economy Report Tháng 4/2011 giải pháp chống lạm phát trên là hợp lý nhưng mới chỉ ở giai đoạn định hướng và thực thi bước đầu. Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng rằng Chính phủ Việt Nam sẽ thành công trong việc bẻ gãy chuỗi lạm phát hiện tại trong ngắn hạn nếu họ thực hiện kế hoạch trên một cách kiên trì và dứt khoát. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Báo cáo kinh tế vĩ vô Việt Nam Khả năng phục hồi Kinh tế Việt Nam Đặc điểm của kinh tế Việt Nam Đặc điểm của kinh tế thế giớiGợi ý tài liệu liên quan:
-
38 trang 247 0 0
-
Một vài khía cạnh của phân tích dữ liệu lớn trong kinh tế
10 trang 224 0 0 -
Hai mô hình phát triển và sự đổi mới kinh tế thông qua thực tiễn phát triển nông nghiệp ở Việt Nam
348 trang 214 0 0 -
46 trang 203 0 0
-
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – ASEAN trước và sau đổi mới
18 trang 199 0 0 -
Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế - PGS.TS. Trần Đình Trọng
337 trang 182 1 0 -
Luận văn: Tìm hiểu thực trạng và xây dựng chiến lược Marketing Mix cho sản phẩm nước xả vải mới
30 trang 178 0 0 -
Tiểu luận Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
20 trang 152 0 0 -
Hiệu quả đầu tư và dư địa cho các chính sách kích thích kinh tế của Việt Nam hiện nay
10 trang 123 0 0 -
Đánh giá tác động giữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
20 trang 113 0 0