Báo cáo nghiên cứu khoa học GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ NHỮNG BẤT CẬP DƯỚI GÓC ĐỘ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 160.75 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ tư đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân vào ngày 28 tháng 12 năm 1993. Điều 1 của Luật quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế được ban hành...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học " GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ NHỮNG BẤT CẬP DƯỚI GÓC ĐỘ THỰC TIỄN ÁP DỤNG " GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ NHỮNG BẤT CẬP DƯỚI GÓC ĐỘ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Đoàn Đức Lương Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ tư đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân vào ngày 28 tháng 12 năm 1993. Điều 1 của Luật quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế được ban hành có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 1994 quy định thẩm quyền và thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế. Kể từ thời điểm này chấm dứt hoạt động của Cơ quan trọng tài kinh tế nhà nước các cấp và các tranh chấp kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng kinh tế. Qua mười năm hoạt động và thực hiện Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế có thể nói Tòa án nhân dân các cấp có thẩm quyền đã vận dụng tôtú các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp kinh tế. Việc giải quyết đã mang lại quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh, đảm bảo công khai, trực tiếp, bước đầu đã tạo niềm tin cho các chủ thể vào hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế mới tại toà án theo thủ tục 69 tố tụng tư pháp. Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp kinh tế tại cấp sơ thẩm mười năm qua như sau: 199 199 199 199 199 199 200 200 200 200 Nă m 4 5 6 7 8 9 0 1 2 3 Số vụ án 126 128 78 453 532 630 859 575 657 748 thụ lý mới 6 0 Số vụ án 107 101 được giải 42 372 496 518 859 575 557 8 0 quyết 638 (Nguồn các Báo cáo tổng kết ngành của Toà án nhân dân tối cao) Trong các tranh chấp kinh tế phát sinh tại Tòa án các tranh chấp về hợp đồng kinh tế chiếm tỷ lệ chủ yếu nhưng khi áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng nhiều trường hợp gặp phải nội dung của điều luật quy định không rõ ràng, dễ dẫn đến cách hiểu khác nhau và chưa có hướng dẫn áp dụng thống nhất nên các tòa án áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp cụ thể dễ dẫn đến kết quả khác nhau. Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế quy định hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu trong các trương hợp: Nội dung của hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật; một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã được thỏa thuận trong hợp đồng; người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Việc xử lý tài sản tiến hành theo nguyên tắc các bên có nghĩa 70 vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên vào năm 1989, tuy nền kinh tế đổi mới từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường nhưng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, một pháp lệnh gần như con đẻ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn được thông qua (1). Đến thời điểm hiện nay Pháp lệnh vẫn còn hiệu lực thi hành nên thực tiễn giải quyết tuyên bố hợp đồng kinh tế vô hiệu còn vướng mắc. Ví dụ về một trường hợp cụ thể tranh chấp về hợp đồng kinh tế việc giải quyết của các cấp Tòa án khác nhau: Tranh chấp hợp đồng mua bán tôm đông lạnh giữa Công ty xuất nhập khẩu thủy sản HN (gọi tắt là Công ty HN) và Công ty thủy sản thương mại TP (gọi tắt là Công ty TP). Ngày 22 - 2 - 2001 Công ty HN ký hợp đồng số 01/TSHN - TP bán hàng tôm PUD đông lạnh cho Công ty TP bao gồm các điều khoản kích cỡ, giá cả, phương thức thanh toán... Thực hiện hợp đồng này các ngày 3-4 và 5 -3-2001 tại kho Lê Lai, Hải Phòng, Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản HN đã giao cho Công ty thuỷ sản và thương mại TP lô hàng tôm đông lạnh các loại với số lượng 27.360 kg, thành tiền 50.163,49 USD và khoản tiền thuế giá trị gia tăng của lô hàng này là 69.712.202 đồng. Ngoài ra Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản HN còn mua hộ bao bì là 9.152.000 đồng và khoản tiền thuế giá trị gia tăng của bao bì là 915.200 đồng. Về thanh toán sau khi đã đối chiếu công nợ hai bên phát sinh tranh chấp. Do hai bên không thống nhất được về số liệu công nợ nên ngày 27-01- 2002 Công ty xuất nhập khẩu HN đã có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân Thành phố HP với yêu cầu buộc Công ty TP phải thanh toán số tiền còn thiếu. Bản án kinh tế sơ thẩm số 02/ KTST đã công nhận hợp đồng hợp pháp tuyên xử buộc Công ty TP phải thanh toán tiền hàng còn thiếu là 379,39 USD, tiền thuế VAT của lô hàng là 69.712.202 đồng, tiền lãi do chậm thanh toán tiền hàng là 525,76 USD, tiền lãi chậm trả của tiền thuế và bao bì là 24.609.950 đồng. 71 Công ty TP kháng cáo yêu cầu xem xét lại khoản tiền 5.203, 20USD do khách hàng nước ngoài đã trừ vì hàng kém phẩm chất. Tòa phúc thẩm sau khi xem xét đơn kháng cáo và các chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã ra bản án phúc thẩm số 126 ngày 10 - 08 - 2002 tuyên bố hợp đồng kinh tế số 01/TSHN-TP vô hiệu toàn bộ vì khi ký kết hợp đồng trên đại diện Công ty thuỷ sản và thương mại TP và ông Trịnh Bá H (Phó giám đốc) đã không được Giám đốc công ty ủy quyền do đó đã vi phạm điểm c, khoản 1, Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Trong bản án chỉ tuyên bố Công ty TP có trách nhiệm trả cho Công ty HN trị giá tài sản đã nhận còn lại là 379,39 USD ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học " GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ NHỮNG BẤT CẬP DƯỚI GÓC ĐỘ THỰC TIỄN ÁP DỤNG " GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ NHỮNG BẤT CẬP DƯỚI GÓC ĐỘ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Đoàn Đức Lương Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ tư đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân vào ngày 28 tháng 12 năm 1993. Điều 1 của Luật quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế được ban hành có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 1994 quy định thẩm quyền và thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế. Kể từ thời điểm này chấm dứt hoạt động của Cơ quan trọng tài kinh tế nhà nước các cấp và các tranh chấp kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng kinh tế. Qua mười năm hoạt động và thực hiện Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế có thể nói Tòa án nhân dân các cấp có thẩm quyền đã vận dụng tôtú các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp kinh tế. Việc giải quyết đã mang lại quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh, đảm bảo công khai, trực tiếp, bước đầu đã tạo niềm tin cho các chủ thể vào hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế mới tại toà án theo thủ tục 69 tố tụng tư pháp. Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp kinh tế tại cấp sơ thẩm mười năm qua như sau: 199 199 199 199 199 199 200 200 200 200 Nă m 4 5 6 7 8 9 0 1 2 3 Số vụ án 126 128 78 453 532 630 859 575 657 748 thụ lý mới 6 0 Số vụ án 107 101 được giải 42 372 496 518 859 575 557 8 0 quyết 638 (Nguồn các Báo cáo tổng kết ngành của Toà án nhân dân tối cao) Trong các tranh chấp kinh tế phát sinh tại Tòa án các tranh chấp về hợp đồng kinh tế chiếm tỷ lệ chủ yếu nhưng khi áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng nhiều trường hợp gặp phải nội dung của điều luật quy định không rõ ràng, dễ dẫn đến cách hiểu khác nhau và chưa có hướng dẫn áp dụng thống nhất nên các tòa án áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp cụ thể dễ dẫn đến kết quả khác nhau. Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế quy định hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu trong các trương hợp: Nội dung của hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật; một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã được thỏa thuận trong hợp đồng; người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Việc xử lý tài sản tiến hành theo nguyên tắc các bên có nghĩa 70 vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên vào năm 1989, tuy nền kinh tế đổi mới từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường nhưng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, một pháp lệnh gần như con đẻ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn được thông qua (1). Đến thời điểm hiện nay Pháp lệnh vẫn còn hiệu lực thi hành nên thực tiễn giải quyết tuyên bố hợp đồng kinh tế vô hiệu còn vướng mắc. Ví dụ về một trường hợp cụ thể tranh chấp về hợp đồng kinh tế việc giải quyết của các cấp Tòa án khác nhau: Tranh chấp hợp đồng mua bán tôm đông lạnh giữa Công ty xuất nhập khẩu thủy sản HN (gọi tắt là Công ty HN) và Công ty thủy sản thương mại TP (gọi tắt là Công ty TP). Ngày 22 - 2 - 2001 Công ty HN ký hợp đồng số 01/TSHN - TP bán hàng tôm PUD đông lạnh cho Công ty TP bao gồm các điều khoản kích cỡ, giá cả, phương thức thanh toán... Thực hiện hợp đồng này các ngày 3-4 và 5 -3-2001 tại kho Lê Lai, Hải Phòng, Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản HN đã giao cho Công ty thuỷ sản và thương mại TP lô hàng tôm đông lạnh các loại với số lượng 27.360 kg, thành tiền 50.163,49 USD và khoản tiền thuế giá trị gia tăng của lô hàng này là 69.712.202 đồng. Ngoài ra Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản HN còn mua hộ bao bì là 9.152.000 đồng và khoản tiền thuế giá trị gia tăng của bao bì là 915.200 đồng. Về thanh toán sau khi đã đối chiếu công nợ hai bên phát sinh tranh chấp. Do hai bên không thống nhất được về số liệu công nợ nên ngày 27-01- 2002 Công ty xuất nhập khẩu HN đã có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân Thành phố HP với yêu cầu buộc Công ty TP phải thanh toán số tiền còn thiếu. Bản án kinh tế sơ thẩm số 02/ KTST đã công nhận hợp đồng hợp pháp tuyên xử buộc Công ty TP phải thanh toán tiền hàng còn thiếu là 379,39 USD, tiền thuế VAT của lô hàng là 69.712.202 đồng, tiền lãi do chậm thanh toán tiền hàng là 525,76 USD, tiền lãi chậm trả của tiền thuế và bao bì là 24.609.950 đồng. 71 Công ty TP kháng cáo yêu cầu xem xét lại khoản tiền 5.203, 20USD do khách hàng nước ngoài đã trừ vì hàng kém phẩm chất. Tòa phúc thẩm sau khi xem xét đơn kháng cáo và các chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã ra bản án phúc thẩm số 126 ngày 10 - 08 - 2002 tuyên bố hợp đồng kinh tế số 01/TSHN-TP vô hiệu toàn bộ vì khi ký kết hợp đồng trên đại diện Công ty thuỷ sản và thương mại TP và ông Trịnh Bá H (Phó giám đốc) đã không được Giám đốc công ty ủy quyền do đó đã vi phạm điểm c, khoản 1, Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Trong bản án chỉ tuyên bố Công ty TP có trách nhiệm trả cho Công ty HN trị giá tài sản đã nhận còn lại là 379,39 USD ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
báo cáo khoa học nghiên cứu khoa học kinh tế xã hội nhân văn khoa học chuyên ngànhGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1551 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 491 0 0 -
57 trang 339 0 0
-
33 trang 331 0 0
-
63 trang 312 0 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 270 0 0 -
95 trang 269 1 0
-
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 266 0 0 -
13 trang 264 0 0
-
Báo cáo khoa học Bước đầu tìm hiểu văn hóa ẩm thực Trà Vinh
61 trang 253 0 0