Danh mục

Báo cáo nghiên cứu khoa học: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬNVỀ CHẾ ĐỊNH QUYỀN CÔNG TỐ (NHÌN NHẬN TỪ GÓC ĐỘ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN)

Số trang: 36      Loại file: pdf      Dung lượng: 201.15 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam và đứng trước yêu cầu cấp thiết của việc sửa đổi phần về tổ chức bộ máy Nhà nước trong Hiến pháp năm 1992 hiện nay, việc nghiên cứu từ góc độ NNPQ những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố để góp phần hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp luật trong hoạt động tư pháp hình sự (TPHS) là một trong những nhiệm vụ quan trọng và đồng thời cũng là hướng nghiên cứu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬNVỀ CHẾ ĐỊNH QUYỀN CÔNG TỐ (NHÌN NHẬN TỪ GÓC ĐỘ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN) " NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬNVỀ CHẾ ĐỊNH QUYỀN CÔNG TỐ (NHÌN NHẬN TỪ GÓC ĐỘ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN) LÊ CẢM TSKH, Q. Chủ nhiệm Khoa, Trưởng Bộ môn Tư pháp hình sự, Khoa Luật trực thuộc ĐHQG Hà Nội I. CÁCH ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam và đứng trước yêu cầu cấp thiết của việc sửa đổi phần về tổ chức bộ máy Nhà nước trong Hiến pháp năm 1992 hiện nay, việc nghiên cứu từ góc độ NNPQ những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố để góp phần hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp luật trong hoạt động tư pháp hình sự (TPHS) là một trong những nhiệm vụ quan trọng và đồng thời cũng là hướng nghiên cứu cơ bản của khoa học pháp lý nước ta, mà khoa học luật tố tụng hình sự (TTHS) là một chuyên ngành và là một bộ phận cấu thành. Bởi lẽ: Một là, về mặt thực tiễn, mặc dù quyền công tố là một nhiệm vụ quan trọng đã được các cơ quan của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) nước ta (trước khi thông qua Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959 và ban hành Luật tổ chức VKSND ngày 26-7-1960 là Viện Công tố trực thuộc Chính phủ) thực hiện suốt mấy chục năm qua, nhưng cho đến nay trong thực tiễn TPHS khái niệm quyền công tố vẫn chưa được hiểu thống nhất và chưa được thừa nhận chung ở các cán bộ của ngành Kiểm sát, cũng như của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác và của Tòa án. Hai là, về mặt lý luận, hiện nay xung quanh những vấn đề liên quan đến chế định quyền công tố như a) khái niệm, b) bản chất pháp lý, c) phạm vi (giới hạn) của quyền công tố, d) nội dung của nó do các yếu tố nào hợp thành và đ) thông qua đó xác định vị trí của VKS trong bộ máy quyền lực NNPQ như thế nào, nhất là trong tình hình hiện nay nếu như VKS không thực hiện chức năng kiểm sát chung (mà chỉ thực hiện hai chức năng chủ yếu – thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp), v.v… vẫn chưa được nghiên cứu để làm sáng tỏ một cách thỏa đáng về mặt khoa học. Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật TTHS nói riêng ở Việt Nam vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào làm sáng tỏ về mặt lý luận một cách có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục, tương đối hoàn chỉnh và có hệ thống những vấn đề này với tính chất là các đối tượng nghiên cứu khoa học riêng biệt. Ba là, về mặt lập pháp, hiện nay khi nghiên cứu để sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chúng ta không thể nào cố tình phủ nhận được tình trạng vi hiến đang tồn tại như: theo Điều 146 thì Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất; Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp; mặt khác Điều 137 cũng không hề quy định cho VKS nói chung và VKSNDTC nói riêng thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của hệ thống Tòa án nói chung và của TANDTC nói riêng. Nhưng trong khi đó, thì lại có một văn bản dưới Hiến pháp – Luật tổ chức VKSND năm 1992 – lại có hẳn một Chương VI riêng “Công tác kiểm sát xét xử” (với bốn điều) giao cho VKS chức năng này và hiện tại VKS vẫn đang thực hiện chức năng đã nêu(1 ). Thiết tưởng, ở đây nếu như nhà làm luật bổ sung thêm đoạn 3 vào Điều 137 Hiến pháp một quy phạm mới với nội dung: “Các chức năng và thẩm quyền, tổ chức và hoạt động của các Viện kiểm sát nhân dân sẽ do luật định”(2 ), thì việc Luật tổ chức VKSND năm 1992 – một văn bản dưới Hiến pháp – giao cho VKS thực hiện chức năng đó (thậm chí thêm nhiều chức năng khác nữa) là hoàn toàn hợp hiến và chẳng có gì phải bàn cãi cả (!). Và cuối cùng bốn là, việc suy ngẫm và phân tích nội dung của chế định quyền công tố (như bản chất pháp lý, phạm vi và các đặc điểm cơ bản của từng chức năng của chế định này), để thông qua đó lý giải và luận chứng cho vị trí của VKS trong bộ máy quyền lực Nhà nước – không chỉ góp phần lấp một khoảng trống trong khoa học pháp lý (kể cả khoa học luật TTHS), mà còn hỗ trợ tích cực cho việc tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong hoạt động TTHS(3 ). 1.2. Như vậy, tất cả những điều nói trên cho phép khẳng định ý nghĩa chính trị – xã hội và pháp lý, cũng như ý nghĩa khoa học-thực tiễn quan trọng và cấp bách của việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố hiện nay. Tuy nhiên, do tính chất đa dạng, phức tạp và nhiều khía cạnh của những vấn đề khoa học còn đang được tranh luận xung quanh chế định quyền công tố, nên trong bài viết này chúng tôi chỉ có thể đề cập những vấn đề nào mà theo quan điểm của chúng tôi là chủ yếu và quan trọng hơn cả. II. NỘI DUNG VẤN ĐỀ 2.1. Việc nghiên cứu so sánh lịch sử TPHS trên thế giới đã cho thấy, về cơ bản khái niệm quyền công tố – hoạt động tố tụng vì lợi ích công cộng (lợi ích của Nhà nước hay của xã hội) đối với người phạm tội – đã được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người. Chẳng hạn, ở nhà nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ V trước CN đã tồn tại hai hình thức tố tụng – công tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước khi mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật) và tư tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án xảy ra do sự vi phạm đến các lợi ích riêng của ai đó); còn ở La Mã cổ đại trong thời kỳ tan rã của nền dân chủ quân sự và hình thành Nhà nước chiếm hữu nô lệ, thì công tố đã được tiến hành đối với cả các vụ án quan trọng nhất trực tiếp xâm hại (hoặc đe dọa nghiêm trọng) đến trật tự xã hội – các lợi ích công cộng (delicta publica), khác với các vụ án động chạm đến các lợi ích cá nhân (delicta privata)(4 ). 2.2. Cùng với thời gian, quyền công tố đã dần dần được hình thành một cách riêng biệt và đến hôm nay nó là một chế định pháp lý độc lập được thừa nhận chung trong luật TTHS của các NNPQ, đặc biệt là của các nước văn minh và phát triển cao trên thế giới. Chẳng hạn, theo các nhà luật học Liên bang (LB) Nga thì mặc dù chế định VKS k ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: