Danh mục

Báo cáo nghiên cứu khoa học SỬ DỤNG CHẾ PHẨM CÂY CỎ XƯỚC ACHYRANTHES ASPERA PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH TIÊU CHẢY LỢN CON THEO MẸ VÀ SAU CAI SỮA

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 226.29 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việc sử dụng các cây thuốc nam và dược liệu của chúng trong điều trị bệnh đã và đang được sử dụng một cách rộng rãi và bước đầu đã thu lại một số kết quả đáng khích lệ. Song việc bào chế sử dụng chúng thuận tiện trong thú y vẫn còn bỏ ngỏ. Trong bài báo này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu bào chế sử dụng cây thuốc từ thân, lá rể và phối hợp thêm một số cơ chất khác trong bài thuốc cổ truyền và có tính khoa học cao để phòng và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học " SỬ DỤNG CHẾ PHẨM CÂY CỎ XƯỚC ACHYRANTHES ASPERA PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH TIÊU CHẢY LỢN CON THEO MẸ VÀ SAU CAI SỮA " SỬ DỤNG CHẾ PHẨM CÂY CỎ XƯỚC ACHYRANTHES ASPERA PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH TIÊU CHẢY LỢN CON THEO MẸ VÀ SAU CAI SỮA Phạm Quang Trung Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế TÓM TẮT Việc sử dụng các cây thuốc nam và dược liệu của chúng trong điều trị bệnh đã và đang được sử dụng một cách rộng rãi và bước đầu đã thu lại một số kết quả đáng khích lệ. Song việc bào chế sử dụng chúng thuận tiện trong thú y vẫn còn bỏ ngỏ. Trong bài báo này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu bào chế sử dụng cây thuốc từ thân, lá rể và phối hợp thêm một số cơ chất khác trong bài thuốc cổ truyền và có tính khoa học cao để phòng và trị bệnh tiêu chảy cho lợn con. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tiêu chảy là một hội chứng xuất hiện th ường xuyên trên lợn con hầu hết ở các lứa tuổi, nhưng thường gặp nhất là vào tuần tuổi thứ 3 sau khi sinh và tuần đầu sau cai sữa ( tuần tuổi thứ 7 của lợn con). Hội chứng này làm giảm tăng trọng, giảm tỷ lệ nuôi sống, dễ dàng làm xuất hiện các bệnh kế phát, giảm hiệu quả kinh tế của người chăn nuôi. Bệnh gây ra do các vi khuẩn đường ruột như E.coli, Enterobacter, Klebsiella, Salmonella, với các tỷ lệ tương ứng 66,7%, 40,7%, 3,9%, 3,7%, và cụ thể điều trị khỏi bằng các loại kháng sinh như: Amikacin, Nofloxacin, neomycin, colistin (Chu Văn Lộc và ctv, 2005)... song để lại hậu quả khó lường là tỷ lệ còi cọc lợn con cao và cả cho sức khỏe cộng đồng. Sau một thời gian nghiên cứu một số cây thuốc, nhóm nghiên cứu chúng tôi đã chọn cây cỏ xước (Achyranthes Aspera) để bào chế sử dụng phòng, trị bệnh tiêu chảy cho lợn con theo mẹ và lợn con sau cai sữa. Bước đầu đã thu được một số kết quả mong đợi. Cây cỏ xước Achyranthes aspera L. thuộc họ dền – Amaranthacaea. Cỏ có thân mảnh, hơi vuông, thường chỉ cao 1m, nhưng cũng có khi cao tới 2m, lá mọ c đối có cuống dài 5-12cm, phiến lá hình trứng, đầu nhọn, mép nguyên. Cụm hoa mọc thành bông ở đầu cành hoặc kẽ lá. Ở Việt Nam, cây thuốc này đã được sử dụng để điều trị bệnh cho con người, còn trong thú y vẫn là điều mới lạ. Xuất phát từ giá trị của cây thuốc, và nhu cầu đòi hỏi của người tiêu dùng có một sản phẩm thịt sạch không có tồn d ư kháng sinh, không tạo ra một dòng vi khuẩn kháng kháng sinh. Sử dụng chúng bước đầu chỉ là dạng thô tươi, còn dạng tinh cho hiệu quả cao, thuận tiện cho người sử dụng vẫn còn là một vấn đề lớn đặt ra. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu bào chế sử dụng cây thuốc từ thân, lá rể và phối hợp thêm một số cơ chất khác trong bài thuốc cổ truyền và có tính khoa học cao để phòng và trị bệnh tiêu chảy cho lợn con. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1.Vật liệu: - Cây cỏ xước - Achyranthes aspera, trồng thu hoạch phơi sấy khô, mật lợn, đường lactoza... phối chế thành chế phẩm. - Động vật thí nghiệm: Lợn mẹ giống MC mang thai và nuôi con Lợn con F1 (MC x ĐB) theo mẹ và sau cai sữa 2.2. Phương pháp nghiên cứu: 2.2.1. Về hóa học - Khả năng sinh trưởng năng suất sinh khối của cây thuốc theo phương pháp nông học thông thường - Định tính một số chất có tác dụng dược lý có trong cây cỏ xước: Sử dụng các thuốc thử cho từng loại chất theo phương pháp thông dụng trong hóa thực vật (phương pháp ngoài đồng của Liên Xô cũ). Định tính phitonxit: Bằng ph ương pháp mẫu thử nguyên sinh vật - paramaecium caudatum L. (A.M. Grodzinski) - Định lượng các chất Saponin, alcaloid, tanin, phitonxit theo phương pháp chuẩn độ hóa phân tích. 2.2.2. Thử tác dụng sinh học của thuốc - Bổ sung chế phẩm 2% theo vật chất khô vào khẩu phần ăn của lợn mẹ mang thai vào tháng thứ hai đến hết giai đoạn nuôi con. - Bổ sung 2% chế phẩm vào thức ăn của lợn con cai sữa nuôi thịt tới 120 ngày tuổi. Sơ đồ bố trí thí nghiệm: Lô I Lô II & ĐC1 ĐC2 TN1 TN2 Lô I: 5 lợn nái MC mang thai tháng thứ 2, có bổ sung 2% chế phẩm thuốc vào thức ăn Lô II: 5 lợn nái MC mang thai tháng thứ 2 làm đối chứng. (Tất cả các lợn nái có trọng lượng tương đương 75-80 kg đẻ lứa 2-3, được nuôi trong các nông hộ, với khẩu phần thức ăn địa phương, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng tương tự như nhau). TN1, TN2 là những lợn con cai sữa sinh ra từ các lợn mẹ Lô I và Lô II, được nuôi dưỡng có bổ sung 2% chế phẩm thuốc vào thức ăn. ĐC1, ĐC2, là những lợn con nuôi đối chứng không bổ sung chế phẩm. - Chỉ tiêu theo dõi: + Tỷ lệ tiêu chảy của lợn con trong thời gian theo mẹ và sau cai sữa + Khả năng tăng trọng của lợn con qua các giai đoạn nuôi 3. Kết quả và bàn luận Bảng 1: Khả năng sinh trưởng và phát triển của cây cỏ xước (Achyranthes Aspera) Lô I (trồng cây) Lô II (trồng cành) Mật độ trồng cây/M2 25 25 Tỷ lệ sống % 95 100 Năng suất cắt lần 1 kg/M2 0,8 0,5 Thời gian tái sinh (ngày) 24 15 Năng suất cắt lần 2 kg/M2 2,1 1,7 Tỷ lệ khô với độ ẩm 5% 19,2 17,0 Cây cỏ xước là một loại cây họ thảo dễ trồng, chúng có thể sinh tr ưởng và phát triển trên các loại đất nghèo dinh dưỡng. Nguồn giống phong phú dễ bảo quản. Chúng tôi đã tiến hành trồng bằng ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: