Danh mục

Báo cáo: Vài nét về quá trình đô thị hoá vùng ven đô TP.Hồ Chí Minh từ sau đổi mới (1986 – 1996)

Số trang: 11      Loại file: doc      Dung lượng: 98.50 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Báo cáo: Vài nét về quá trình đô thị hoá vùng ven đô TP.Hồ Chí Minh từ sau đổi mới (1986 – 1996) giúp bạn nắm quá trình đô thị hoá của các quận ven đô TP.Hồ Chí Minh, một số tồn tại và giải pháp.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo: Vài nét về quá trình đô thị hoá vùng ven đô TP.Hồ Chí Minh từ sau đổi mới (1986 – 1996) VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ VÙNG VEN ĐÔ TP. HỒ CHÍ MINH TỪ SAU ĐỔI MỚI (1986 – 1996) NGUYỄN THỊ THUỶ (*) 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị. Đồng thời đó làquá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệpgiảm, sản xuất phi nông nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại,không gian đô thị mở rộng. Ở Việt Nam, trước 1975 đất nước liên tục bị chiến tranh nên ởmiền Bắc đô thị hoá diễn ra hết sức chậm chạp. Ở miền Nam dưới thờiMỹ - Ngụy đô thị hoá diễn ra ồ ạt ở Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh)nhưng mang tính cưỡng bức nên đã để lại hậu quả khá nặng nề sau chiếntranh. Sau năm 1975, cả nước ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệmvụ trọng tâm của các tỉnh miền Nam là khắc phục mọi khó khăn khôiphục và phát triển kinh tế, ổn định xã hội và đời sống nhân dân. Do vậynhững năm đầu sau giải phóng, đô thị hoá ở Sài Gòn về cơ bản không cógì đáng kể. Từ năm 1986, khi Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới, khuyếnkhích các thành phần kinh tế phát triển, Sài Gòn với ưu thế là một thànhphố trẻ có tiềm năng về khoa học kỹ thuật, về quan hệ buôn bàn vớinước ngoài và tiềm ẩn nền kinh tế đa thành phần đã nhanh chóng trởthành trung tâm công nghiệp – thương mại – du lịch - dịch vụ và quan hệquốc tế. Đây cũng là thành phố dẫn đầu cả nước về tốc độ đô thị hoá ởTp. Hồ Chí Minh đã diễn ra trong không gian rộng lớn cả nội ô và vùngven đô Tp. Hồ Chí Minh. Ven đô Tp. Hồ Chí Minh là một vùng rộng lớn bao gồm các quậnven nội và các huyện cửa ngõ của thành phố như: Bình Thạnh, Tân Bình,Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh, Ven đô Tp. Hồ ChíMinh chiếm 79% diện tích và 17% dân số thành phố (tính tới thời điểm1996). Trong chiến tranh cũng như lúc hoà bình vùng ven đô có một vị tríhết sức quan trọng đối với sự trường tồn của thành phố. Khi chiến tranhxảy ra, vùng ven là pháo đài xanh để bảo vệ cho sự bình yên của thànhphố. Hoà bình lập lại, vùng ven đô là nơi cung cấp lao động, lương thựcthực phẩm để xây dựng phát triển thành phố. Đồng thời, đây còn là “vànhđai xanh” để chắn lọc gió bụi cho nội ô. Trong quá trình đô thị hoá Tp. HồChí Minh, vùng ven đô là nơi trực tiếp chịu sự tác động của làn sóng didân nông thôn – thành thị. Nơi đây cũng đã xảy ra quá trình đô thị hoá khámạnh mẽ. Trong phạm vi bài viết này xin được đề cập đến một số nétnổi bật trong quá trình đô thị hoá vùng ven đô Tp. Hồ Chí Minh (chủ yếulà các quận ven). 2. QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ CỦA CÁC QUẬN VEN ĐÔ TP.HỒ CHÍ MINH 2.1 Quá trình tập trung dân cư đô thị Trong quá trình đô thị hoá, vấn đề di dân nông thôn – thành thị xảyra với hầu hết các nước trên thế giới và trong khu vực như Thái Lan,Indonesia, Philippin… Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới của đất nước đãlàm cho quan hệ sản xuất được cải thiện, năng lực sản xuất được giảIphóng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được đẩy mạnh đã thu hútlao động từ nông thôn ra thành thị kiếm việc làm. Vì vậy, sau đổi mới HàNội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh đều có sự gia tăng dân số độtngột, đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh. Theo điều tra của các nhà xã hội học,mỗi ngày có hàng trăm người đủ các thành phần trí thức đến công nhân,nông dân đủ mọi lứa tuổi từ cụ già đến em nhỏ khắp các địa phươngtrong nước đổ về thành phố với ước muốn khác nhau: Tìm kiếm công ănviệc làm, thăng quan tiến chức, tìm đất dụng võ… Do đó đã làm cho sựgia tăng dân số cơ học của Tp. Hồ Chí Minh vượt trội so với các thànhphố khác. Năm 1980 Tp. Hồ Chí Minh có khoảng 3.202.000 người. Năm1990 là 4.005.000 người và đến năm 2000 là hơn 6.000.000 người. Nếuxét về dân nhập cư: năm 1996 có khoảng 600.000 người. Trong khi tỷ lệtăng tự nhiên của thành phố chỉ khoảng 1,5% mỗi năm thì tăng dân số cơhọc lên đến 2%. Sự gia tăng dân số nhanh đã làm cho mật độ dân số quáđông. Bình quân là 23.800 người/ km2. Trong thực tế lên tới 35.900 người/km2. Một số quận trung tâm mật độ còn cao hơn: ở quận 5 là 52.900người/ km2, các quận ven nội mật độ dân thấp hơn; Gò Vấp mật độ dânsố cao nhất là 29.945 người/ km2 (phường 1). Dần dần, các quận nội ô tôtrở nên quá tải, di dân nông thôn – thành thị bành trướng về các quận ven.Trong 600.000 người nhập cư năm 1996 có 65.609 người tạm trú ở ThủĐức, tập trung tại một số phường như Phước Bình: 2.426 người, HiệpBình Chánh: 5.816 người. Phường 26 quận Bình Thạnh có 4.283 người;phường 12 (Bình Thạnh) có 7.576 người (1). Ngoài bộ phận dân nhập cư từ nông thôn đến, ven đô còn là nơigiãn dân của nội thành. Với chính sách chỉnh trang đô thị, giải phóng nhà ổchuột, nhà trên kênh rạch của thành phố, ven đô đã tiếp nhận thêm một bộphận dân cư từ các quận nội thành chuyển ra. Sau đó là những người dângiàu có từ các quận trung tâm cũng tìm đến ven đô để tậu đất, tậu nhà xâydựng biệt th ...

Tài liệu được xem nhiều: