Bảo hiểm y tế tự nguyện
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 120.20 KB
Lượt xem: 22
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
"Bảo hiểm y tế tự nguyện" cung cấp đến các bạn các kiến thức hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện, cũng như tình trạng của BHYT tự nguyện hiện nay. Tham khảo để biết nội dung chi tiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bảo hiểm y tế tự nguyện Bảo hiểm y tế tự nguyệnNguồn: laodong.com.vn(LĐCT) - Đảm bảo sức khoẻ cho nhân dân là một chính sách rất quan trọng. Không cósức khoẻ tốt không thể có sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Bên cạnh bảo hiểmy tế (BHYT) bắt buộc, bảo hiểm y tế tự nguyện được đưa vào theo Nghị định63/2005/NĐ-CP gần hai năm qua là một bước đi đúng hướng.Nhưng rất đáng tiếc do không được chuẩn bị chu đáo nên hoạt động khá trầy trật.Liên bộ Y tế -Tài chính đã có Thông tư liên tịch số 22/2005/TTLT ngày 24.8.2005 đểhướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế tự nguyện. Theo đó BHYT thanh toán 100% chi phíkhám chữa bệnh cơ bản theo quy định, và 100% cho dịch vụ kỹ thuật cao dưới 7 triệuđồng một lần; 60% chi phí dịch vụ kỹ thuật cao trên 7 triệu đồng nhưng không quá 20triệu đồng một lượt. Nói cách khác đồng chi trả (bệnh nhân và BHYT cùng chi trả:trước đây theo tỉ lệ là 20/80) đã bị bãi bỏ.Với quy định bỏ đồng chi trả chưa được cân nhắc kỹ này (nhưng có vẻ được lòng dân,ngẫm nghĩ kỹ thì ngược lại), chỉ trong năm 2006 Quỹ BHYT bội chi tới 1.616 tỉ đồng.Tính cả nửa cuối năm 2005 (kể từ thời điểm Điều lệ BHYT mới có hiệu lực), Quỹ âmkhoảng 1.900 tỉ, gần hết khoản kết dư hơn mười năm qua.Tình hình diễn ra đúng như cảnh báo của các nhà chuyên môn đã nêu ra khi quy địnhđược ban hành về nguy cơ xảy ra hiểm hoạ đạo đức - moral hazard khi BHYT chi trảtoàn bộ chi phí, khi cả những người được bảo hiểm lẫn các nhà cung cấp dịch vụ khôngcó khuyến khích để tiết kiệm.Tình trạng lựa chọn ngược - adverse selection, tức là những người có bệnh nặng háohức tham gia (vì giá rẻ, vì được thanh toán 100%) còn những người khoẻ mạnh thì khônghào hứng, cũng được cảnh báo và đã xuất hiện. Cho nên việc cháy quỹ là điều dễ hiểu,chỉ tại vài câu sai trong quy định. Để vá víu từ đó đến nay đã phải tăng phí BHYT tựnguyện lên hai lần. Nhưng tăng phí không phải là bài thuốc bốc đúng bệnh.Và mới đây với Thông tư số 06/2007/TTLT-BYT-BTC ngày 30.3.2007, Nhà nước đãphải siết chặt các đối tượng tham gia và điều kiện triển khai BHYT tự nguyện (tít củabáo ĐCSVN điện tử 4.4.2007). Bên cạnh nhiều quy định siết chặt khác và tăng phí bảohiểm tự nguyện lên 50%, theo Thông tư này BHYT sẽ chỉ thanh toán 100% chi phí khámchữa bệnh ngoại trú dưới 100 ngàn đồng một lượt.Tất cả các chi phí khác (ngoại trú trên 100 ngàn và các chi phí nội trú) bệnh nhân phảiđồng chi trả ở mức 20% (kể cả dịch vụ kỹ thuật cao không quá 20 triệu đồng một lượt).Nói cách khác phục hồi lại cơ chế đồng chi trả. Khoản học phí khá cao cho một bài họcsơ đẳng mà bất kể sinh viên nào học bảo hiểm cũng phải biết.Một quy định bất cập nữa của Nghị định 63 (điểm 3, Điều 27) là nếu Quỹ BHYT tựnguyện thiếu tiền thì có thể lấy từ Quỹ BHYT bắt buộc hay nguồn khác để chi trả. Theotôi phải tách bạch các quỹ này. BHYT tự nguyện là bảo hiểm y tế bổ sung bên cạnhBHYT bắt buộc, và thị trường này phải được mở ra cho cả các hãng bảo hiểm thương mạinữa. Để tránh sự lẫn lộn, tù mù, để nâng cao sự minh bạch và hiệu quả Quỹ BHYT tựnguyện phải được tách bạch, và quản lý tách rời Quỹ BHYT bắt buộc.Hệ thống chăm sóc sức khoẻ gồm hai mặt: cấp tài chính và cung cấp dịch vụ. BHYT thựchiện chức năng cấp tài chính, nó là người (đại diện cho bệnh nhân) mua dịch vụ từ nhữngngười cung cấp dịch vụ y tế (các bệnh viện, phòng khám bệnh). Khả năng chi trả của bảohiểm y tế và của người dân cho y tế tạo thành cầu. Khả năng cung ứng của các bệnh viện,phòng khám tạo thành cung. Cải cách hệ thống y tế là cải cách cả hai bên cung và cầu. Cảcác tổ chức BHYT lẫn các tổ chức cung ứng dịch vụ sẽ đều nên mở cho khu vực phi nhànước (phi lợi nhuận, và vì lợi nhuận).Bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện phải bao sân BHYT (cả bắt buộc và tự nguyện) song lạibị Nhà nước chi phối trực tiếp quá nhiều nên hoạt động không thể hiệu quả. Ai cũng biếtNhà nước không thể vận hành tốt hệ thống cấp tài chính và cung cấp dịch vụ y tế; songthị trường tự do cũng không thể. Cần có sự phối hợp hài hoà. Nên chia dịch vụ y tế thànhcác dịch vụ cơ bản và các dịch vụ bổ sung.Nhà nước phải có chính sách đảm bảo các dịch vụ cơ bản (nhưng không có nghĩa là Nhànước phải tự đứng ra làm). Và BHYT bắt buộc (sẽ phải dần dần mở ra cho toàn dân) sẽchỉ nên cung cấp tài chính cho các dịch vụ y tế cơ bản. Các gói dịch vụ cơ bản được cácbên cấp tài chính và các bên cung ứng dịch vụ thoả thuận theo từng thời kỳ và có thểđược mở rộng theo sự phát triển kinh tế.Có khá nhiều kinh nghiệm quốc tế [thí dụ được tổng kết trong cuốn Chăm sóc sức khoẻcộng đồng (Phúc lợi, Lựa chọn và Đoàn kết trong chuyển đổi) của J. Kornai và K.Eggleston (NXB Văn hoá Thông tin 2002)] mà chúng ta có thể học để tạo ra hệ thốnghiệu quả phù hợp với Việt Nam. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bảo hiểm y tế tự nguyện Bảo hiểm y tế tự nguyệnNguồn: laodong.com.vn(LĐCT) - Đảm bảo sức khoẻ cho nhân dân là một chính sách rất quan trọng. Không cósức khoẻ tốt không thể có sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Bên cạnh bảo hiểmy tế (BHYT) bắt buộc, bảo hiểm y tế tự nguyện được đưa vào theo Nghị định63/2005/NĐ-CP gần hai năm qua là một bước đi đúng hướng.Nhưng rất đáng tiếc do không được chuẩn bị chu đáo nên hoạt động khá trầy trật.Liên bộ Y tế -Tài chính đã có Thông tư liên tịch số 22/2005/TTLT ngày 24.8.2005 đểhướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế tự nguyện. Theo đó BHYT thanh toán 100% chi phíkhám chữa bệnh cơ bản theo quy định, và 100% cho dịch vụ kỹ thuật cao dưới 7 triệuđồng một lần; 60% chi phí dịch vụ kỹ thuật cao trên 7 triệu đồng nhưng không quá 20triệu đồng một lượt. Nói cách khác đồng chi trả (bệnh nhân và BHYT cùng chi trả:trước đây theo tỉ lệ là 20/80) đã bị bãi bỏ.Với quy định bỏ đồng chi trả chưa được cân nhắc kỹ này (nhưng có vẻ được lòng dân,ngẫm nghĩ kỹ thì ngược lại), chỉ trong năm 2006 Quỹ BHYT bội chi tới 1.616 tỉ đồng.Tính cả nửa cuối năm 2005 (kể từ thời điểm Điều lệ BHYT mới có hiệu lực), Quỹ âmkhoảng 1.900 tỉ, gần hết khoản kết dư hơn mười năm qua.Tình hình diễn ra đúng như cảnh báo của các nhà chuyên môn đã nêu ra khi quy địnhđược ban hành về nguy cơ xảy ra hiểm hoạ đạo đức - moral hazard khi BHYT chi trảtoàn bộ chi phí, khi cả những người được bảo hiểm lẫn các nhà cung cấp dịch vụ khôngcó khuyến khích để tiết kiệm.Tình trạng lựa chọn ngược - adverse selection, tức là những người có bệnh nặng háohức tham gia (vì giá rẻ, vì được thanh toán 100%) còn những người khoẻ mạnh thì khônghào hứng, cũng được cảnh báo và đã xuất hiện. Cho nên việc cháy quỹ là điều dễ hiểu,chỉ tại vài câu sai trong quy định. Để vá víu từ đó đến nay đã phải tăng phí BHYT tựnguyện lên hai lần. Nhưng tăng phí không phải là bài thuốc bốc đúng bệnh.Và mới đây với Thông tư số 06/2007/TTLT-BYT-BTC ngày 30.3.2007, Nhà nước đãphải siết chặt các đối tượng tham gia và điều kiện triển khai BHYT tự nguyện (tít củabáo ĐCSVN điện tử 4.4.2007). Bên cạnh nhiều quy định siết chặt khác và tăng phí bảohiểm tự nguyện lên 50%, theo Thông tư này BHYT sẽ chỉ thanh toán 100% chi phí khámchữa bệnh ngoại trú dưới 100 ngàn đồng một lượt.Tất cả các chi phí khác (ngoại trú trên 100 ngàn và các chi phí nội trú) bệnh nhân phảiđồng chi trả ở mức 20% (kể cả dịch vụ kỹ thuật cao không quá 20 triệu đồng một lượt).Nói cách khác phục hồi lại cơ chế đồng chi trả. Khoản học phí khá cao cho một bài họcsơ đẳng mà bất kể sinh viên nào học bảo hiểm cũng phải biết.Một quy định bất cập nữa của Nghị định 63 (điểm 3, Điều 27) là nếu Quỹ BHYT tựnguyện thiếu tiền thì có thể lấy từ Quỹ BHYT bắt buộc hay nguồn khác để chi trả. Theotôi phải tách bạch các quỹ này. BHYT tự nguyện là bảo hiểm y tế bổ sung bên cạnhBHYT bắt buộc, và thị trường này phải được mở ra cho cả các hãng bảo hiểm thương mạinữa. Để tránh sự lẫn lộn, tù mù, để nâng cao sự minh bạch và hiệu quả Quỹ BHYT tựnguyện phải được tách bạch, và quản lý tách rời Quỹ BHYT bắt buộc.Hệ thống chăm sóc sức khoẻ gồm hai mặt: cấp tài chính và cung cấp dịch vụ. BHYT thựchiện chức năng cấp tài chính, nó là người (đại diện cho bệnh nhân) mua dịch vụ từ nhữngngười cung cấp dịch vụ y tế (các bệnh viện, phòng khám bệnh). Khả năng chi trả của bảohiểm y tế và của người dân cho y tế tạo thành cầu. Khả năng cung ứng của các bệnh viện,phòng khám tạo thành cung. Cải cách hệ thống y tế là cải cách cả hai bên cung và cầu. Cảcác tổ chức BHYT lẫn các tổ chức cung ứng dịch vụ sẽ đều nên mở cho khu vực phi nhànước (phi lợi nhuận, và vì lợi nhuận).Bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện phải bao sân BHYT (cả bắt buộc và tự nguyện) song lạibị Nhà nước chi phối trực tiếp quá nhiều nên hoạt động không thể hiệu quả. Ai cũng biếtNhà nước không thể vận hành tốt hệ thống cấp tài chính và cung cấp dịch vụ y tế; songthị trường tự do cũng không thể. Cần có sự phối hợp hài hoà. Nên chia dịch vụ y tế thànhcác dịch vụ cơ bản và các dịch vụ bổ sung.Nhà nước phải có chính sách đảm bảo các dịch vụ cơ bản (nhưng không có nghĩa là Nhànước phải tự đứng ra làm). Và BHYT bắt buộc (sẽ phải dần dần mở ra cho toàn dân) sẽchỉ nên cung cấp tài chính cho các dịch vụ y tế cơ bản. Các gói dịch vụ cơ bản được cácbên cấp tài chính và các bên cung ứng dịch vụ thoả thuận theo từng thời kỳ và có thểđược mở rộng theo sự phát triển kinh tế.Có khá nhiều kinh nghiệm quốc tế [thí dụ được tổng kết trong cuốn Chăm sóc sức khoẻcộng đồng (Phúc lợi, Lựa chọn và Đoàn kết trong chuyển đổi) của J. Kornai và K.Eggleston (NXB Văn hoá Thông tin 2002)] mà chúng ta có thể học để tạo ra hệ thốnghiệu quả phù hợp với Việt Nam. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Bảo hiểm y tế tự nguyện Bảo hiểm y tế Tài liệu bảo hiểm y tế tự nguyện Tài liệu bảo hiểm y tế Nội dung bảo hiểm y tế tự nguyện Tài liệu về bảo hiểmGợi ý tài liệu liên quan:
-
21 trang 215 0 0
-
18 trang 212 0 0
-
6 trang 192 0 0
-
Tìm hiểu 150 tình huống pháp luật về bảo hiểm xã hội - bảo hiểm y tế: Phần 1
101 trang 188 0 0 -
Tổng quan về bảo hiểm xã hội - phần 1
10 trang 187 0 0 -
4 trang 173 0 0
-
Đề tài báo cáo ' Xác định nhu cầu bảo hiểm y tế tự nguyện của nông dân văn giang - tỉnh hưng yên '
10 trang 170 0 0 -
2 trang 130 0 0
-
Quyết định số 23/2012/QĐ-UBND
9 trang 122 0 0 -
8 trang 109 0 0