Danh mục

BARNETT NEWMAN VỚI NHỮNG BỨC TRANH VẠCH HUYỀN BÍ

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 138.77 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Barnett Newman là một họa sĩ tiên phong trong trào lưu tranh Trừu tượng, tranh Động tác hay tranh Nền màu của thế giới thập niên 50 - 60. Tranh của ông kỳ lạ chỉ có những đường vạch hay những nét sổ dọc trên một nền màu chung, song chứa đựng ý nghĩa nhân văn to lớn, khiến người xem phải rung động bởi vẻ huyền bí, độc đáo. Họa sĩ sinh ngày 29 tháng giêng năm 1905 tại Manhattan, New York Mỹ, là anh cả của một gia BARNETT đình bốn anh em người Do thái gốc Nga....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BARNETT NEWMAN VỚI NHỮNG BỨC TRANH VẠCH HUYỀN BÍ BARNETT NEWMAN VỚI NHỮNG BỨC TRANH VẠCH HUYỀN BÍ Barnett Newman là một họa sĩ tiên phong trong trào lưu tranh Trừu tượng, tranh Động tác hay tranh Nền màu của thế giới thập niên 50 - 60. Tranh của ông kỳ lạ chỉ có những đường vạch hay những nét sổ dọc trên một nền màu chung, song chứa đựng ý nghĩa nhân văn to lớn, khiến người xem phải rung động bởi vẻ huyền bí, độc đáo. Họa sĩ sinh ngày 29 tháng giêng năm 1905 tại Manhattan, New York Mỹ, là anh cả của một gia BARNETT đình bốn anh em người Do thái gốc Nga. Ông đã NEWMAN - tiếng có nhiều tuyệt tác như Genesis - Chúa sáng tạo ra nói của lửa thế giới, năm 1946, Onement - Cứu thế, 1948, Covenant - Lời hứa, 1949, Abraham 1949, Phút cuối tĩnh lặng 1949, Eva 1950, Joshua 1950, Vir Heroicus Sublimis 1950 - 1951, Adam 1951 - 1952, Phúc âm 1954, Uriel - ánh sáng của chúa, 1954, Via Dolorosa - Những cảnh trên đường cây thánh giá qua, 1958 - 1966, Tiếng nói của lửa 1967, Ai ngại màu đỏ, vàng và xanh lơ, 1967 - 1970, ánh sáng của Anna 1968, Jericho 1968 - 1969,... Những năm đầu đến với nghệ thuật, Newman hoạt động phê bình chủ yếu hơn là vẽ. Ông chỉ chính thức trở thành họa sĩ sau đại thế chiến hai, cùng thời với các họa sĩ như Mark Rothko (1903 - 1970), Adolph Gottlieb (1903 - 1974), Clyffiord (1904 - 1980) và Jackson Pollock (1912 - 1956). Ông đã là người đầu tiên phản bác phong cách truyền thống định sẵn, và đề cao sự tự do ngẫu hứng, góp phần tạo lên trào lưu Chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng. Sau một thời gian phê bình nghệ thuật và viết catalogue, ông đã vẽ được nhiều tranh trừu tượng nổi tiếng, với khổ lớn tạo một sự chuyển biến nổi bật nhất trong hội họa thế kỷ 20. Newman là một họa sĩ rất kỳ lạ. Ông không giữ lại các sáng tác hồi trẻ. Bức tranh đầu tiên mà mọi người biết tới cũng là bức tranh khi ông đã 40 tuổi Và trong cả cuộc đời ông chỉ sáng tác 120 bức tranh và triển lãm sáu lần. Đến 60 tuổi, ông mới được xem là họa sĩ hàng đầu của Mỹ. Đa số tranh đều có một hoặc nhiều vạch thẳng hoặc gần thẳng trên nền màu acrylic hay sơn dầu. Sau khi vẽ nền, họa sĩ che đi từng phần của bức tranh và vẽ lên đó những cái vạch. Tuy nhiên, ở các sáng tác ban đầu, thì đó không phải là những nét vạch, như trong bức tranh Phúc lành năm 1944, đó là các đường tròn, hình vòng kiềng màu cam, vàng, lam, dương và trên nền không đồng nhất ghi đen và nâu nhạt; đến bức tranh Hai cạnh năm 1948 đã chuyển sang là hai kẻ vạch đứng trên nền thống nhất hơn màu nâu sậm rồi nhạt dần từ trái sang phải. Cùng năm bức tranh Cứu thế I đã có nền đồng nhất và với một đường vạch thẳng tắp thanh thoát. Tranh nhiều khi vô đề, tên thường được đặt sau khi vẽ khá lâu và theo những câu chuyện huyền bí của người Do thái với chủ đề thiên hùng ca miêu tả sự sống, con người, thiên nhiên, cái chết và bi kịch. Năm 1948, ông đã có triển lãm riêng đầu tiên tại gallery Betty Parson. Trong các bức tranh ấn tượng của ông, đặc sắc hơn cả là bức tranh ánh sáng của Anna tưởng nhớ thân mẫu họa sĩ năm 1965 và là tác phẩm lớn nhất cao 2,7 mét rộng 8,5 mét. Kế đó là bức tranh Vir Heroicus Sublimis cao 2,4 mét rộng 5,4 mét, và nhỏ nhất là bức tranh Hoang dã năm 1950 cao 2,4 mét rộng gần bốn centimét. Bức tranh Joshua và Jericho năm 1969 là hai bức tranh hình tam giác duy nhất có nền đen và một vạch đỏ tươi. Tương tự, bức tranh Tiếng nói của lửa là bức tranh đắt nhất, vào năm 1989 đã được gallery quốc gia Canada mua với giá 1,8 triệu đô la; tranh gồm một sọc đỏ trên nền màu xanh lơ. Điều thú vị là nó rất giống với lá cờ của ngành Kỹ thuật quân sự Canada. Năm 1996, Nhà in Đại học Toronto đã in một cuốn sách cùng tên viết về những cuộc tranh luận ghê gớm quanh bức tranh đắt giá này. Cuối đời họa sĩ còn vẽ tranh trên nhiều chất liệu và hình dạng mà nổi bật là bức tranh hình tam giác Chartres năm 1969. ông cũng thôi dùng màu dầu mà dùng xít acrylic để vẽ tranh. Ngoài ra, ông còn tạc tượng. Năm 1963, ông đã có bức tượng Tháp Obelisk gồm hai kim tự tháp chồng lên nhau và là kiệt tác lớn nhất trong sáu tác phẩm điêu khắc của ông. Do bức tượng khá đắt nên người ta chỉ dám sao lại và một bản sao đang được đặt tại bảo tàng Mỹ thuật hiện đại New York, quảng trường Đỏ đại học Washington ở Seatle và nhà thờ Rothko ở Houston. Tranh vạch của Newman là một điều bí ẩn của mỹ thuật Mỹ. Để hiểu được tác phẩm cần biết rằng, vẽ với những người Do Thái cũng là một tội lỗi. Theo điều răn thứ hai trong 10 điều răn dạy của Đức chúa, thì khi hoàng tử Moses, lên núi Sinai anh đã được tiếp diện Đức chúa và được Người giao cho trọng trách lãnh đạo Ai Cập đi theo đạo Thiên chúa, Người đã căn răn 10 điều và trong đó điều thứ hai là không được vẽ lại những hình ảnh nào ở trên trời, dưới đất, dưới nước. Dĩ nhiên trong 2.000 năm qua, ...

Tài liệu được xem nhiều: