Danh mục

BẮT GIỮ, XỬ LÝ VÀ TRÌNH DIỆN KHÁNG NGUYÊN (Kỳ 11)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 172.18 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các chức năng khác của các tế bào trình diện kháng nguyên Các tế bào trình diện kháng nguyên không chỉ trình diện kháng nguyên cho các tế bào lympho T nhận diện mà còn cung cấp các “tín hiệu thứ hai” để hoạt hoá các tế bào lympho T. Thuyết “hai tín hiệu” hoạt hoá tế bào lympho đã được trình bầy trong chương 1 và sẽ còn được đề cập đến trong phần trình bầy về các đáp ứng của các tế bào T và B trong các chương 5 và 7.Xin nhắc lại kháng nguyên là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BẮT GIỮ, XỬ LÝ VÀ TRÌNH DIỆN KHÁNG NGUYÊN (Kỳ 11) BẮT GIỮ, XỬ LÝ VÀ TRÌNH DIỆN KHÁNG NGUYÊN (Kỳ 11) Các chức năng khác của các tế bào trình diện kháng nguyên Các tế bào trình diện kháng nguyên không chỉ trình diện kháng nguyên chocác tế bào lympho T nhận diện mà còn cung cấp các “tín hiệu thứ hai” để hoạt hoácác tế bào lympho T. Thuyết “hai tín hiệu” hoạt hoá tế bào lympho đã được trình bầy trongchương 1 và sẽ còn được đề cập đến trong phần trình bầy về các đáp ứng của cáctế bào T và B trong các chương 5 và 7. Xin nhắc lại kháng nguyên là tín hiệu thứ nhất còn tín hiệu thứ hai thì docác vi sinh vật hoặc các tế bào trình diện kháng nguyên phản ứng với các vi sinhvật ấy cung cấp. Yêu cầu cần có tín hiệu thứ hai để bảo đảm cho các đáp ứng miễn dịchthích ứng được tạo ra là để chống lại các vi sinh vật chứ không chống lại các tácnhân không có bản chất từ vi sinh vật và vô hại khác, mặc dù cơ thể vẫn có các tếbào lympho có khả năng nhận diện các chất này. Các loại sản phẩm khác nhau của vi sinh vật và các đáp ứng miễn dịch bẩmsinh có thể hoạt hoá các tế bào trình diện kháng nguyên bộc lộ các tín hiệu thứ haiđể hoạt hoá các tế bào lympho. Ví dụ như rất nhiều loại vi khuẩn tạo ra chất lipopolysaccharide (viết tắt làLPS và còn được gọi là nội độc tố). Khi các vi khuẩn này bị các tế bào trình diệnkháng nguyên bắt giữ rồi các kháng nguyên của chúng được trình diện thì chất nộiđộc tố này tác động lên chính tế bào trình diện kháng nguyên bắt giữ các vi khuẩnsinh nội độc tố đó và kích thích tạo ra hai thay đổi. Đáp ứng lại các nội độc tố thì các tế bào trình diện kháng nguyên bộc lộcác protein trên bề mặt của chúng được gọi là các đồng kích thích tố. Các đồngkích thích tố này được các thụ thể của tế bào T nhận diện. Thay đổi thứ hai là các tế bào trình diện kháng nguyên chế tiết cáccytokine, các cytokine lại cũng được các thụ thể của tế bào T dành cho cytokinenhận diện. Các đồng kích thích tố và cytokine phối hợp cùng với việc nhận diện khángnguyên bởi các thụ thể của tế bào T dành cho kháng nguyên sẽ kích thích quá trìnhtăng sinh và biệt hoá của các tế bào lympho T. Trong trường hợp này kháng nguyên là tín hiệu thứ nhất còn các đồng kíchthích tố và cytokine cung cấp tín hiệu thứ hai cho sự phát triển của đáp ứng miễndịch qua trung gian tế bào T. Các kháng nguyên được nhận diện bởi tế bào B Các tế bào lympho B sử dụng các phân tử kháng thể trên bề mặt của chúngđể nhận diện vô số các kháng nguyên khác nhau bao gồm các protein, cácpolysaccharide, lipid, và các hoá chất nhỏ. Các kháng nguyên này có thể có trên bềmặt các vi sinh vật (ví dụ các kháng nguyên của vỏ hoặc nha bào) hoặc chúng cóthể ở dạng hoà tan (ví dụ như các độc tố do các vi sinh vật tiết ra). Đáp ứng với sựkích thích của kháng nguyên và các tín hiệu khác, tế bào B sẽ biệt hoá thành các tếbào plasma chế tiết kháng thể (xem chương miễn dịch dịch thể). Các kháng thểchế tiết đi vào máu và vào các dịch tiết của màng nhầy để gắn vào các khángnguyên, có tác dụng trung hoà và loại bỏ các kháng nguyên đó. Các thụ thể của tếbào B dành cho kháng nguyên và các kháng thể chế tiết thường nhận diện cáckháng nguyên ở dạng cấu trúc không gian nguyên thuỷ của chúng mà không cầnphải có quá trình xử lý và trình diện kháng nguyên bởi các hệ thống chuyên trách.Có vẻ như cũng không cần phải có các tế bào trình diện kháng nguyên chuyêntrách để trình diện kháng nguyên cho các tế bào B “trinh nữ”. Vì thế việc nhậndiện kháng nguyên của tế bào B dường như ít được kiểm soát hơn việc nhận diệnkháng nguyên của các tế bào T. Do sự hoạt hoá các tế bào B diễn ra trong các cơquan lympho ngoại vi như lách và các hạch lympho nên có thể tại các cơ quan nàyhẳn phải có các cơ chế bắt giữ các vi sinh vật và thậm chí cả các kháng nguyênngoại sinh không có bản chất từ các vi sinh vật với thành phần hoá học phong phúvà đa dạng. Rõ ràng là nếu có những cơ chế như vậy thì chúng phải giữ cho cáckháng nguyên ở dạng nguyên thuỷ và duy trì các kháng nguyên này ở đó để chocác tế bào B nhận diện chúng. Tuy nhiên người ta còn chưa biết nhiều về cáchthức các tế bào B đặc hiệu với một kháng nguyên nhất định (thường cũng rất ít ỏigiống như các tế bào T đặc hiệu với kháng nguyên) tìm được kháng nguyên tươngứng ấy ở trong các cơ quan lympho. Các nang lympho ở trong các hạch lympho và lách là vùng giầu tế bào B.Tại đây có chứa một quần thể tế bào được gọi là tế bào có tua ở nang lympho(follicular dendritic cell). Các tế bào này có chức năng là trình diện các khángnguyên cho các tế bào B đã hoạt hoá. Các tế bào có tua ở nang lympho sử dụngcác thụ thể của chúng dành cho Fc của phân tử kháng thể để bắt giữ các khángnguyên đã bị phủ kháng thể. Các tế bào này cũng dùng các thụ thể của chúng dànhcho yếu tố ...

Tài liệu được xem nhiều: