Danh mục

BỆNH CÚM Ở NGƯỜI LỚN

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 216.17 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mở đầu: Chúng ta thường gọi là cảm cúm khi có một bênh nhân có những bênh cảnh viêm long đường hô hấp trên: hắt hơi, sổ mũi, sốt, ho, viêm họng..Thật ra, viêm long hô hấp trên do nhiều tác nhân gây bệnh khác nhau , từ các virút hay gặp như adenovirus, cosxackie cho đến vi khuẩn như Hemophillus influenza, liên cầu,đều có thể gây một bệnh cảnh ít nhiều ảnh hưởng đường hô hấp trên.Cúm cũng có những biểu hiện tương tự, nhưng do virút influenza gây nên. Chúng có thể lantruyền rất mạnh và rất...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BỆNH CÚM Ở NGƯỜI LỚN BỆNH CÚM Ở NGƯỜI LỚN Mở đầu: Chúng ta thường gọi là cảm cúm khi có một bênh nhân có những bênh cảnhviêm long đường hô hấp trên: hắt hơi, sổ mũi, sốt, ho, viêm họng..Thật ra, viêmlong hô hấp trên do nhiều tác nhân gây bệnh khác nhau , từ các virút hay gặp nhưadenovirus, cosxackie cho đến vi khuẩn như Hemophillus influenza, liên cầu,đềucó thể gây một bệnh cảnh ít nhiều ảnh hưởng đường hô hấp trên.Cúm cũng cónhững biểu hiện tương tự, nhưng do virút influenza gây nên. Chúng có thể lantruyền rất mạnh và rất nhanh, gây nhiều biến chứng quan trọng ở một số người cónguy cơ cao. Vì vậy, cần phải lưu ý và phân biệt giữa cúm và các bệnh cảnh tươngtự khác, ít ra trên phương diện lý thuyết. I. Định nghĩa: Cúm là một bệnh nhiễm virut ,lây truyền mạnh, có thể thành dịch, biểuhiện bởi sốt, viêm đường hô hấp trên, các biến chứng về phế quản và phổi, nặnghay nhẹ tùy theo từng vụ dịch và tùy theo cơ địa của mỗi bệnh nhân. II.Nguyên nhân: Tác nhân gây bệnh là virut Orthomyxovirus influenzae, gồm có 3 typeA,B,C phân biệt nhờ các phản ứng huyết thanh. Mỗi type thường có nhiều phântype, và những kháng nguyên khác nhau. Các kháng nguyên nầy, nhất là của typeA, thường biến đổi. Do đó, đối với virut cúm type A, người ta thường ký hiệu theothứ tự sau: nơi phát hiện ra virut, năm phát hiện,chỉ số kháng nguyên H(hémagglutinine) và kháng nguyên N (neuramidase). Virut cúm lây trực tiếp,quanhững giọt nhỏ nước bọt bắn ra khi bệnh nhân hay người lành mang trùng ho, hắthơi, hay nói chuyện .Cúm ở động vật (ngựa, bò, chim) không lây sang cho người,nhưng có lẽ là nguồn gốc của các chủng mới gây bệnh ở người. III.Dịch tễ học: Các vụ dịch cúm thường xẩy ra có chu kỳ, và thường gây ra do các viruttype A và type B. Các virut cúm type C hiếm khi gây nên dịch thật sự,chúng chỉgây nên những ca nhiễm trùng tiềm ẩn hay những vụ dịch nhỏ ở trẻ em.Khảo sáthuyết thanh cho thấy, từ 15 tuổi trở lên, 100% các quần thể được nghiên cứu ởnhiều nước đều có kháng thể chống vrut cúm C.Người ta cũng có nhận xét rằng,mặc dầu không hòan tòan tuyệt đối, các vụ dịch cúm do virut type A thường cóchu kỳ 2-3 năm, trong khi dịch do virut type B thường từ 4 đến 6 năm.Tuy nhiêncả hai type virut A và B đều có thể xẩy ra trong cùng một mùa dịch cúm. Tất cả các đại dịch cúm tòan cầu cho đến nay đều do virut cúm type A gâyra, do sự thay đổi kháng nguyên.Từ cuối thế kỷ thứ 19 đến nay, lịch sử y học đãghi nhận ít nhất 3 vụ đại dịch tòan cầu. Dịch cúm thường xẩy ra vào mùa lạnh, từ cuối thu cho đến đầu xuân.Trongmột quần thể dân cư, dịch đạt đến cao điểm trong vòng hai tuần kể từ lúc khởi đầu,và dịch thường kéo dài chừng hơn 1 tháng.Tỷ số tấn công (attack rate) có thể lênđến 40%, với số bệnh mới (incidence) cao nhất ở độ tuổi 5-15 tuổi.Trong nhóm từ40 tuổi trở đi, tần số mới mắc giảm dần.Từ sau đại dịch 1919 đến nay , tỷ lệ tửvong trong những vụ dịch cúm giảm dần, chỉ dao động trong khỏang 1% vàthường xẩy ra ở trong những nhóm hoặc rất trẻ, hoặc rất già,có thai,, những ngườicó bệnh tim phổi mạn tính,bệnh về chuyển hóa như đái đường, suy thận mạn,… Hình như virut cúm là lọai virut gây bệnh chỉ riêng cho lòai người, mặc dầungười ta đã phân lập được một số chủng từ lợn và ngựa, có kháng nguyên liên hệđến virut cúm gây bệnh ở người.Đến nay chúng ta vẫn chưa biết virut cúm tồn tạiở đâu trong thời gian không có dịch cúm.Ngay cả hiện tượng dịch cúm xẩy ra theomùa cũng chưa được giải thích tường tận.Sự xuất hiện đồng thời những vụ dịchcúm nhỏ ở những địa phương rất xa cách nhau cũng rất khó lý giải, dù hiện nayphương tiện giao thông rất nhanh chóng.Có thể trong các quần thể nầy, mầm virutđã có sẵn qua những ca mắc bệnh rải rác xẩy ra hàng tuần trước khi dịch bùng nổ. Các đại dịch thường do sự đột biến kháng nguyên của virut A gây nên, chủyếu với hai kháng nguyên H và N. Đến nay chúng ta đã biết các lọai virut cókháng nguyên H1N1, H2N2,H3N2 và các biến chủng của chúng. Ở nước ta,do không đủ phương tiện để chẩn đóan về mặt virut, nên khôngthể phân biệt được một cách rõ ràng cúm với các loại virut khác gây một bệnhcảnh tương tự. Do đó số liệu về cúm ở nước ta không có được chính xác. Tuynhiên chúng ta thường dựa vào tính chất lan truyền nhanh thành dịch, tình trạngsuy nhược kéo dài sau khi đã mất các triệu chứng lâm sàng, để lọai suy rằng đó làcúm. IV.Giải phẫu bệnh: Ở đường hô hấp trên, có họai tử các tế bào biểu bì có tiêm mao, xuất hiệncác chất xuất tiết gồm các tế bào lympho, chất nhầy, và các mảnh vụn của các tếbào bị bong ra do nhiễm virut.Trong những trường hợp không có biến chứng, cáctế bào biểu bì sẽ tái sinh trong vài ba ngày từ lớp tế bào nền.Trong những trườnghợp có biến chứng hay bội nhiễm, sẽ có hình ảnh viêm phế quản hay phế quản phếviêm.các phế bào bị phù, phổi thường đen và x ...

Tài liệu được xem nhiều: