Thông tin tài liệu:
Căn nguyên và Sinh bệnh học: trên nền tảng hiểu biết nhiều về sinh bệnh học bệnh gai đen, thiếu insulin có vai trò thúc đẩy sự hiện diện bệnh gai đen. Phụ nữ cường androgen và kháng insulin mắc bệnh gai đen, có giảm chức năng do đột biến trong thụ thể insulin hoặc các kháng thể của thụ thể kháng insulin (hội chứng type A và type B). Điều này thể hiện rằng gia tăng kích thích yếu tố tăng trưởngtrên da gây ra tăng sinh khác thường các tế bào sừng và nguyên bào sợi làm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BỆNH DA TRONG TIỂU ĐƯỜNG (Kỳ 3) BỆNH DA TRONG TIỂU ĐƯỜNG (Kỳ 3) oooOOOooo *Căn nguyên và Sinh bệnh học: trên nền tảng hiểu biết nhiều về sinh bệnhhọc bệnh gai đen, thiếu insulin có vai trò thúc đẩy sự hiện diện bệnh gai đen. Phụnữ cường androgen và kháng insulin mắc bệnh gai đen, có giảm chức năng do độtbiến trong thụ thể insulin hoặc các kháng thể của thụ thể kháng insulin (hội chứngtype A và type B). Điều này thể hiện rằng gia tăng kích thích yếu tố tăng trưởngtrên da gây ra tăng sinh khác thường các tế bào sừng và nguyên bào sợi làm phátsinh phenotype bệnh gai đen. Trong các tình trạng đề kháng insulin và tăng insulinmáu, bệnh gai đen có thể gây ra do gia tăng insulin kết hợp với các thụ thể IGF-1trên các tế bào sừng và nguyên bào sợi. Các thụ thể IGF-1 gia tăng trên nền các tếbào sừng và làm tăng sự tăng sinh. Các nghiên cứu nhận thấy nồng độ cao insulinkích thích nguyên bào sợi tăng sinh thông qua các thụ thể IGF-1 in vitro. Cácnhánh khác của gia đình thụ thể tyrosine kinase, bao gồm thụ thể yếu tố tăngtrưởng thượng bì và thụ thể yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi, nhận thấy cũnggây bệnh gai đen. Các hội chứng di truyền nặng [Crouzon và SADDAN (SevereAchondroplasia with Developmental Delay and Acanthosis nigricans)] với độtbiến trên thụ thể tăng trưởng nguyên bào sợi β gây ra bệnh gai đen mà không cótăng insulin máu hoặc béo phì, chứng tỏ vai trò thụ thể yếu tố tăng trưởng nàytrong sinh bệnh học bệnh gai đen. Trong nhiều nghiên cứu về bệnh gai đen liênquan với bệnh ác tính, có bằng chứng cho thấy sự chuyển dạng yếu tố tăng trưởngβ phóng thích từ các tế bào bướu có thể kích thích tăng sinh tế bào sừng theođường các thụ thể tăng trưởng thượng bì. Thêm vào các ảnh hưởng trực tiếp của tăng insulin máu trên các tế bàosừng, insulin cũng làm gia tăng androgen ở phụ nữ. Cấp độ cao insulin kích thíchsản xuất androgen của buồng trứng và phì đại buồng trứng với thay đổi dạng nang.Mặc dù có mối liên quan với sự gia tăng chuẩn độ androgen, bệnh gai đen ở phụnữ với hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) không đáp ứng với liệu phápkháng androgen, cho thấy mối liên quan quan trọng của tăng insulin máu hơn làtăng androgen trong bệnh gai đen. Có nhiều thuốc đã được báo cáo là nguyên nhângây bệnh gai đen, bao gồm glucocorticoids toàn thân, nicotinic acid, estrogens(như diethylstilbestrol). *Biểu hiện lâm sàng các tổn thương da: là các u nhú da màu nâu đến xámđen, dày, ở các vùng gấp ở da (như vùng sau bên cổ, nách, bẹn, nếp bụng), phânbố thường đối xứng. Vùng da tổn thương bên ngoài mượt như nhung, cáu bẩn.Trong một số trường hợp, bề mặt miệng, thực quản, hầu, thanh quản, kết mạc,niêm mạc hậu môn-trực tràng cũng thấy có tổn thương. Tuy nhiên, mặt sau cổ làvùng thường gặp nhất và ảnh hưởng nặng nhất. Sự phát triển chồng lên của mụncơm có cuống (acrochordon) trên vùng tổn thương cũng đã được mô tả. Trongtrường hợp rõ ràng, tổn thương vùng lưng bàn tay phía trên các xương bàn tay vàtrên lòng bàn tay có thể thấy (gọi là “lòng bàn tay bao tử bò” [tripe palm], thườngliên quan với bệnh ác tính). Trong đa số trường hợp, yếu tố chẩn đoán quan trọngbệnh gai đen thường liên quan với tăng insulin máu (yếu tố nguy cơ tiểu đườngtype 2). Mô bệnh học của tổn thương lâm sàng xác định bệnh cảnh u nhú da và tăngsừng nhưng dày lớp gai nhẹ. Tăng sắc tố trên màng đáy thường thay đổi và có màunâu. *Điều trị: thường không hiệu quả. Điều trị tại chỗ bằng Calcipotriol,Salicylic acid, Urea và Retinoids tại chỗ hoặc toàn thân thường có tính giai thoại(anecdotal). Khi đã xác định, việc điều trị bệnh lý nguyên nhân bên dưới có thểcần thiết. Sự cải thiện hoặc lành bệnh xảy ra khi giảm cân gặp ở một số bệnh nhânbéo phì. Các dược phẩm làm cải thiện sự nhạy cảm insulin, như Metformin, có giátrị giả thuyết. Ở bệnh nhân bệnh gai đen có liên quan bệnh lý ác tính, bệnh thườngcải thiện khi điều trị bệnh ác tính bên dưới. Khi có kết hợp với bệnh ác tính, mộtbướu có nguồn gốc trong ổ bụng, thường là dạ dày, rất thường gặp. Đã có nhữngbệnh nhân cải thiện bệnh ở da với hóa trị liệu và giảm bớt các đợt tái phát. 2. Chứng dày da trong tiểu đường (diabetic thick skin): Nhiều hội chứng chuyên biệt thường kết hợp với sự dày lên tại chổ của datrong tiểu đường. Thông thường sinh bệnh học bên dưới gồm các thay đổi sinh hóahọc trong collagen và mucopolysaccharides của bì. Các hội chứng lâm sàng là hậuquả của sự gia tăng tích tụ và thoái biến sai lệnh của các thành phần này, có liênquan với sự hình thành AGEs. 3.Giới hạn cử động khớp và hội chứng giống xơ cứng bì : (limited joint mobility [LJM] and scleroderma-like syndrome) Giới hạn cử động khớp trong tiểu đường, hoặc bệnh lý khớp bàn tay(cheiroarthropathy), biểu hiện bằng sự căng cứng và dày lên của da và mô liên kếtq ...