Danh mục

BỆNH ĐỤC THỂ THUỶ TINH

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 120.52 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (12 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bình thường thể thuỷ tinh là một thấu kính lồi hai mặt, trong suốt, đảm nhận chức năng hội tụ ánh sáng vào võng mạc. Khi tình trạng trong suốt này mất đi, thể thuỷ tinh sẽ chuyển màu mờ đục và ánh sáng rất khó đi qua. Bệnh nhân sẽ bị mờ mắt và cuối cùng là mù loà. Đục thể thuỷ tinh là nguyên nhân đứng hàng đầu trong số các bệnh gây mù loà cho nhân loại nhưng đây là loại mù có thể chữa được. Hàng năm có hàng triệu người trên thế giới bị...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BỆNH ĐỤC THỂ THUỶ TINH BỆNH ĐỤC THỂ THUỶ TINHI. Đại cương:Bình thường thể thuỷ tinh là một thấu kính lồi hai mặt, trong suốt, đảm nhận chứcnăng hội tụ ánh sáng vào võng mạc. Khi tình trạng trong suốt này mất đi, thể thuỷtinh sẽ chuyển màu mờ đục và ánh sáng rất khó đi qua. Bệnh nhân sẽ bị mờ mắtvà cuối cùng là mù loà. Đục thể thuỷ tinh là nguyên nhân đứng hàng đầu trong sốcác bệnh gây mù loà cho nhân loại nhưng đây là loại mù có thể chữa được. Hàngnăm có hàng triệu người trên thế giới bị mù loà do đục thể thuỷ tinh được mổ thấylại ánh sáng, có lại được thị lực để làm việc, sinh hoạt.Ở trong thể thuỷ tinh liên tục có quá trình sinh tổng hợp chất protein để liên tục táitạo các sợi thể thuỷ tinh vùng xích đạo. Vì lý do nào đó quá trình dị hoá glucose bịrối loạn làm cho quá trình trên bị ảnh hưởng dẫn đến sự biến chất protit đưa tớităng áp lực thẩm thấu, tăng hấp thu nước vào thể thuỷ tinh gây đục.Nhiều yếu tố căn nguyên khác đi cùng được nêu ra là: sự lão hoá của các ty lạpthể, rối loạn nồng độ ion Na+, Ca++, K+, rối loạn nồng độ axít ascorbic,glutathion…II. Khám bệnh đục thể thuỷ tinh:2.1. Hỏi bệnh: Triệu chứng chủ quan của đục thể thuỷ tinh rất nghèo nàn. Bệnh nhân thườngchỉ phàn nàn vì giảm thị lực. Ở giai đoạn rất sớm của bệnh có thể có dấu hiệu ruồibay. Trên bệnh nhân cao tuổi, triệu chứng là giảm số kính đọc sách. Nhiều cụ giàcao tuổi không cần kính mà vẫn có thể đọc sách hoặc khâu vá. Đó là do khi thểthuỷ tinh bị dần dần đục thì nó lại dần tăng công suất khúc xạ tức là cận thị hoá.Số diop cận thị do đục thể thuỷ tinh sẽ bù trừ cho số diop lão thị để bệnh nhân dầndần giảm số kính lão cho đến khi về số 0 là lúc cụ già không cần đến kính lão nữa.Ở một số bệnh nhân khác lại có những triệu chứng nghe qua rất lạ tai nh ư ra ngoàisáng thì nhìn kém, nhưng vào trong nhà, trong bóng râm thì nhìn lại tốt hơn. Đóchính là những bệnh nhân đục thể thuỷ tinh thể đục nhân trung tâm. Khi ra ngo àinắng, ngoài chỗ sáng thì đồng tử co nhỏ lại, ánh sáng đi qua đúng vùng trung tâmđục cho nên khó tới được võng mạc. Khi ở trong nhà trong bóng râm thì đồng tửgiãn rộng hơn, ánh sáng sẽ đi qua đuợc cả ở vùng rìa của nhân trung tâm vẫn chưađục đậm, hình ảnh sẽ rõ hơn.2. Khám bệnh: Đục thể thuỷ tinh hoàn toàn chỉ cần nhìn bằng mắt thường cũng thấy. Khi đódiện đồng tử không còn trong nữa mà là một màu trắng. Đo thị lực có thể chỉ cònở mức rất thấp hoặc mức mù loà (đếm ngón tay Vì vậy khi gặp bệnh nhân đục thể thuỷ tinh cần khám thật đầy đủ và hệ thống: đothị lực, thử hướng ánh sáng, đo nhãn áp, soi đáy mắt, nếu có thể được thì thử hoặcđo cả thị trường, làm siêu âm kiểm tra võng mạc - dịch kính.III. Phân loại đục thể thuỷ tinh theo căn nguyên.3.1. Đục thể thuỷ tinh do tuổi già: Loại này còn được gọi là đục thể thuỷ tinh lão suy. Đây là một nguyên nhânđục thể thuỷ tinh thường gặp nhất ở người tuổi trên 65. Tuổi càng cao thì thể thuỷtinh càng tăng độ dày, tăng trọng lượng và kém đàn hồi. Các hình thái lâm sàngthường gặp là đục nhân trung tâm (nucleus) và đục phần vỏ (cortex) Nhân trungtâm của thể thuỷ tinh xơ cứng lại và ngả màu vàng xẫm và ngày càng xẫm lại,nhiều khi ngả sang màu nâu đen. Ở giai đoạn đục chưa hoàn toàn, cắt trên sinhhiển vi sẽ thấy rất rõ sự đậm đặc của lớp nhân trung tâm. Ở hình thái đục vỏ thểthuỷ tinh: khi đồng tử giãn sẽ thấy các vết đục trắng hình chêm. Kiểu đục này vềsau dễ dẫn tới tình trạng đục thể thuỷ tinh căng phồng do tăng hút nước và khi đódễ đưa tới tăng nhãn áp cấp tính.Đục thể thuỷ tinh do tuổi gi à là quá trình diễn ra từ từ và có thể không song hànhgiữa hai mắt. Người ta chia quá trình đục thể thuỷ tinh ra các giai đoạn:- Giai đoạn đục bắt đầu:Bệnh nhân bắt đầu thấy những biểu hiện lâm sàng như đã nêu trên. Nhìn mắtthường qua lỗ đồng tử chưa thấy hình ảnh mờ đục. Cắt trên sinh hiển vi còn thấytất cả bề dày trước sau của thể thuỷ tinh và thấy rõ vùng đục hoặc ở phần cortexhoặc ở nucleus. Đáy mắt vẫn soi thấy mặc d ù các chi tiết kém rõ. Ánh đồng tửhồng nhưng không thuần nhất.- Giai đoạn đục tiến triển: Thị lực của bệnh nhân giảm rõ hơn có khi chỉ còn ở mức đếm ngón tay trướcmắt. Nhìn mắt thường qua lỗ đồng tử thấy mờ đục. Quan sát trên sinh hiển vi thấycác vùng đục của thể thuỷ tinh đậm hơn, rộng ra hơn và có khi ánh sáng không cắtqua hết được bề dày thể thuỷ tinh. Chỉ thấy đáy mắt qua vùng chu biên chưa đụccủa thể thuỷ tinh khi đã tra thuốc giãn đồng tử. Ánh đồng tử rất mờ. Giai đoạn đục thể thuỷ tinh hoàn toàn (đục chín):- Thị lực chỉ còn ở mức thấy sáng tối, biết hướng ánh sáng. Ánh sáng củakhe cắt máy sinh hiển vi không còn cắt qua được phần vỏ mà chỉ thấy được bề mặtcủa thể thuỷ tinh ở diện đồng tử. Không thể soi thấy được đáy mắt. Ánh đồng tửcũng không còn.Nếu không được điều trị, những thể thuỷ tinh đục hình thái vỏ sẽ từ mức đục chínchuyển sang đục quá chín. L ...

Tài liệu được xem nhiều: