Danh mục

BỆNH HỌC DỊCH KÍNH (Kỳ 1)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 164.73 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Giải phẫu đại thể: Dịch kính là chất dạng gel trong suốt lấp đầy buồng nhãn cầu ở phía sau thể thuỷ tinh. Khối dịch kính chiếm chừng 2/3 thể tích nhãn cầu. Giới hạn sau của dịch kính lượn vòng theo hình cầu, ở phía trước lõm do sự đè ép của mặt sau thể thuỷ tinh. Dịch kính dính tương đối vững chắc vào tổ chức xung quanh ở hai vùng: Phía trước dính vào biểu mô thể mi thành hình vành khăn rộng chừng 2-3 mm kể từ oraserata ra phía trước tới pars plana...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BỆNH HỌC DỊCH KÍNH (Kỳ 1) BỆNH HỌC DỊCH KÍNH (Kỳ 1) I . GIẢI PHẪU DỊCH KÍNH 1.1. Giải phẫu đại thể: Dịch kính là chất dạng gel trong suốt lấp đầy buồng nhãn cầu ở phía sau thểthuỷ tinh. Khối dịch kính chiếm chừng 2/3 thể tích nhãn cầu. Giới hạn sau củadịch kính lượn vòng theo hình cầu, ở phía trước lõm do sự đè ép của mặt sau thểthuỷ tinh. Dịch kính dính tương đối vững chắc vào tổ chức xung quanh ở hai vùng:Phía trước dính vào biểu mô thể mi thành hình vành khăn rộng chừng 2-3 mm kểtừ oraserata ra phía trước tới pars plana của thể mi, có thể có thêm sự liên hệ lỏnglẻo với các tua mi và các sợi vòng mi. Salzman (1912) gọi đây là vùng nền dịchkính (vitreous base). Ơ phía sau dịch kính dính vào vòng quanh đĩa thị thành mộtvòng tròn theo bờ đĩa thị và kém chắc chắn hơn so với ở vitreous base. Trên bềmặt đĩa thị trung tâm của thị thần kinh thì không dính. Vì lý do này mà trên lâmsàng có thể thấy một vòng tròn đông đặc trong những ca bong sau của dịch kínhkhi đó xuất hiện một lỗ ở ngay phía trước của đĩa thị. Nếu xảy ra sự co kéo bệnh lýhoặc sau khi chết thì hai vòng dính của dịch kính kể trên vẫn dính. Nếu dịch kínhbị kéo đứt ra thì biểu mô thể mi có thể bị rách và chỗ dính của dịch kính bị mất ởđiểm đó. Trong khi thường thì không thể tách rời dịch kính ra khỏi võng mạc ởvùng quanh đĩa thị mà không làm rách bề mặt của màng bọc . Đường dính nối dịch kính vào mặt sau của thể thuỷ tinh là một vòng nhẫncó đường kính 8-9 mm (the hyaloideo-capsular ligament of Wieger-1883). Ơ chỗhố bánh chè, dịch kính bị tách rời khỏi thể thuỷ tinh bởi khoảng mao mạch củaBerger (capillary space of Berger-1882). Khi có bệnh lý thì khoang này thườngchứa máu và các tế bào viêm. Đường vòng tròn dính giữa mặt sau thể thuỷ tinh vàdịch kính (có khi gọi là đường Egger’s line-1924) thường rất khó thấy và thực vậy,sự hiện diện của dây chằng bao thể thuỷ tinh - màng bọc dịch kính đã từng bị phủnhận (Busacca-1956). Tuy nhiên vùng dính có thể được minh chứng trong mộttiêu bản dịch kính – thể thuỷ tinh: Khối dịch kính cô lập vẫn được treo vào thểthuỷ tinh bằng chính dây chằng Wieger. Trong trường hợp này nó đã dính vào thểthuỷ tinh một khoảng thời gian và chỉ tách nhau ra khởi đầu từ hố bánh chè rấtchậm và từng tí một (Vail-1957). Trong những trường hợp bệnh lý, chỗ dính có thể được minh chứng trênlâm sàng khi mà máu ở sau thể thuỷ tinh được thấy dưới dạng một vòng tròn đồngtâm với xích đạo của thể thuỷ tinh. Trên một số loài động vật thì chỗ dính này rấtchắc (ví dụ ở thỏ ) đến nỗi nếu lấy thể thuỷ tinh trong bao thì thường là bị thoátdịch kính rất nhiều. Grignolo (1952) cho rằng dịch kính còn dính ở một vài chỗ khác ở bề mặtvõng mạc và đặc biệt là ở vùng xích đạo và ở vùng hoàng điểm. Schepens (1954)cũng ủng hộ ý kiến này. Những chỗ dính đó chắc chắn liên quan tới hiện tượng cokéo rách võng mạc khi có bong dịch kính sau. 1.2. Giải phẫu vi thể: Các nhà giải phẫu học coi dịch kính có 3 phần : - Hai màng bọc trước và sau. - Ống Cloquet. - Khối dịch kính. * Màng dịch kính trước: nằm ngay sau thể thuỷ tinh và các dây chằng . * Màng dịch kính sau: ôm lấy phần sau của dịch kính, áp sát vào võng mạc.Thực chất, màng dịch kính là sự đông đặc của dịch kính ở lớp ngoài cùng. Ranhgiới giữa 2 phần trước và sau của màng bọc dịch kính là phần đáy của dịch kính(vitreous base), ở đó dịch kính áp trực tiếp vào biểu mô của vùng phẳng thể mi. * Ống Cloquet (Jules Cloquet 1790-1833): Bắt đầu từ sau thể thuỷ tinh chotới mặt trước gai thị, là di tích của động mạch dịch kính khi ở bào thai. Đôi khiống này còn được mang tên Stilling (1868) vì nhà giải phẫu này mô tả nó đầy đủhơn. Trên lâm sàng soi thấy ống này trong suốt uốn lượn mềm mại trong khối dịchkính khi mắt chuyển động. * Khối dịch kính: Có cấu trúc dạng gel, chủ yếu do một protein dạng sợi,đó là những sợi collagen rất mịn xếp theo nhiều hướng khác nhau nhưng khôngchắp nối với nhau và lấp đầy khoảng cách giữa các sợi đó là nước (99%), 1% làcác chất đặc gồm các phân tử acid hyaluronic. Cấu trúc của các khoang sợi này cókhuynh hướng trở nên rõ rệt theo tuổi. Chất collagen có lẽ được tạo ra bởi nhữngtế bào ở nơi ranh giới giữa dịch kính và võng mạc . II.. KHÁM DỊCH KÍNH. 2.1. Đèn khe: Dịch kính bình thường không thể quan sát được bằng các máy soi đáy mắtthông thường. Một số những thay đổi bất thường trong cấu trúc của dịch kính cóthể thấy được bằng cách dùng máy soi đáy mắt như đục dịch kính, những đámđông đặc hoặc những dải hình vòng tròn của bong dịch kính ở phía sau hoặcnhững dị vật ngoaị lai. Ví dụ như máu, tế bào bạch cầu, các tổ chức tân tạo như xơvà tân mạch … .Dịch kính bình thường ở trong nhãn cầu và một số những bấtthường quan trọng của nó (co rút, đông đặc) có thể quan sát th ...

Tài liệu được xem nhiều: