Danh mục

Biến chứng nhiễm trùng sau khi nội soi mật tụy ngược dòng(ERCP) (Kỳ 2)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 162.13 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhiễm trùng đường mật tiến triển trong khoảng 24 đến 72 giờ sau ERCP ở những bệnh nhân thất bại trong dẫn lưu. Tam chứng Charcot xảy ra chỉ 50 đến 75% bệnh nhân. Sự bối rối và tụt huyết áp xảy ra ở bệnh nhân nhiễm trùng mưng mủ đường mật, gây ra ngũ chứng Reynold, liên quan đến tử vong của người bệnh, suy đa cơ quan dẫn đến sốc nhiễm trùng. Huyết áp tụt có thể gặp ở bệnh nhân lớn tuổi. Những ca nặng có thể liên quan đến phát triển những ổ áp xe...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Biến chứng nhiễm trùng sau khi nội soi mật tụy ngược dòng(ERCP) (Kỳ 2) Biến chứng nhiễm trùng sau khi nội soi mật tụy ngược dòng(ERCP) (Kỳ 2) Nhiễm trùng đường mật tiến triển trong khoảng 24 đến 72 giờ sau ERCP ởnhững bệnh nhân thất bại trong dẫn lưu. Tam chứng Charcot xảy ra chỉ 50 đến75% bệnh nhân. Sự bối rối và tụt huyết áp xảy ra ở bệnh nhân nhiễm trùng mưngmủ đường mật, gây ra ngũ chứng Reynold, liên quan đến tử vong của người bệnh,suy đa cơ quan dẫn đến sốc nhiễm trùng. Huyết áp tụt có thể gặp ở bệnh nhân lớntuổi. Những ca nặng có thể liên quan đến phát triển những ổ áp xe trong gan. Hình ảnh áp xe gan Việc phân độ: Nhiễm trùng đường mật sau ERCP có thể nhẹ, trung bình,nặng cấp tính. Nếu nhẹ thì nhiệt độ cơ thể trên 38 độ trong 24- 48 giờ. Nếu trungbình thì sốt,mệt mỏi kéo dài trên ba ngày nằm viện. Nếu nặng cấp tính có thể dẫnđến sốc nhiễm trùng. Việc điều trị chính của nhiễm trùng đường mật sau ERCP làgiải áp đường mật, ngoài ra phải chăm sóc tích cực kết hợp với sử dụng khángsinh. Đối với biến chứng viêm túi mật cấp,tỷ lệ mắc phải từ 0.1-8.6% trong nhiềunghiên cứu. Viêm túi mật cấp sau ERCP có thể nghi ngờ ở những bệnh nhân cóđau ở hạ sườn phải và dày thành túi mật trên siêu âm. Nguy cơ mắc phải sẽ tănglên ở những bệnh nhân tiểu đường và những người có sự tắc nghẽn do đặt stentkhông thành công. Hầu hết các trung tâm phòng ngừa bằng tiến hành cắt bỏ túimật sớm sau ERCP cắt cơ vòng Oddi dẫn lưu đường mật trong sỏi ống mật chủ.Đối với biến chứng nhiễm trùng tuyến tụy, sự nhiễm trùng này sau ERCP thì ítgặp và có thể có nhiều biểu hiện khác nhau. Bao gồm: Sự nhiễm trùng của nanggiả do việc tiêm thuốc vào ống tuỵ hoặc việc lấy sỏi, sự nhiễm trùng có thể dodụng cụ nội soi gây ra. Hình ảnh siêu âm viêm túi mật:túi mật căng to,thành dày chứa nhiều dịch Việc ngăn ngừa biến chứng nhiễm trùng sau thủ thuật ERCP: Thứ nhấtlà về kỹ thuật nội soi, kỹ thuật và kỹ năng ERCP thích hợp trong dẫn lưu là điềuhết sức quan trọng trong việc làm giảm nguy cơ nhiễm trùng. Những khuyến cáovề việc ngăn ngừa nhiễm trùng nhấn mạnh nguyên tắc cơ bản,chắc chắn trong thủthuật nội soi từ hiệp hội nội soi tiêu hoá Hoa Kỳ (American Society forGastrointestinal Endoscopy): Ống nội soi phải được làm sạch và vô trùng trướcmỗi thủ thuật; dung dịch cản quang phải vô trùng, việc thêm kháng sinh trongthuốc cản quang là không cần thiết,nhưng vẫn còn tranh cãi; liều lượng thuốc cảnquang tiêm vào nên giảm tối thiểu đủ để thấy hình ảnh trên X-quang, đường mậtnên làm thông trước khi tiêm để tránh làm tăng áp lực thuỷ tĩnh; khi việc dẫn lưucuối cùng không đạt được, có thể dẫn lưu tạm thời bằng ống thông mũi mật hoặcstent cho đến khi thủ thuật cuối cùng có thể làm; nếu dòng chảy mật không phụchồi thì có thể làm dẫn lưu mật xuyên gan qua da mà không trì hoãn; bệnh nhân đặtstent đường mật cần được theo dõi sát để tránh việc tắc stent và ngăn ngừa biếnchứng nhiễm trùng liên quan. Việc dùng kháng sinh dự phòng được khuyến cáo ở bệnh nhân được lựachọn sau ERCP. Kháng sinh dự phòng nên dùng phổ rộng, nhưng lợi ích của việcsử dụng thật khó để nêu ra trong những thử nghiệm lâm sàng. Hai nghiên cứuphương pháp phân tích tổng hợp đăng vào 1999 và 2009 đã thất bại trong việc đưara hiệu quả của kháng sinh sau thủ thuật ERCP. Chúng tôi không đề nghị dùngkháng sinh dự phòng cho những bệnh nhận không có nhiễm trùng đường mật ởnhững ca có tắc nghẽn ống dẫn mật. Tuy nhiên, chúng tôi đề nghị dùng kháng sinhdự phòng sau ERCP ở nhóm nguy cơ cao, bao gồm xơ cứng đường mật, viêmnang giả tụy, những bệnh nhân miễn dịch kém.

Tài liệu được xem nhiều: