Biến chứng xì rò và tử vong sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày tá tràng
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 216.21 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Rò ống tiêu hoá trên (ROTH) là một biến chứng nặng sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày-tá tràng, việc điều trị rò tiêu hóa gặp nhiều khó khăn. Nghiên cứu này nhằm phân tích các biến chứng xì rò và tử vong sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày-tá tràng. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Biến chứng xì rò và tử vong sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày tá tràng BIẾN CHỨNG XÌ RÒ VÀ TỬ VONG SAU PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ BỆNH DẠ DÀY TÁ TRÀNG Phan Đương* Phùng Tấn Cường*, Tôn Thất Bửu*, Phạm Kim Hiếu*, Lê Hoàng Anh*, Huỳnh Thanh Hiệp*, Nguyễn Dũng*, Trần Thị Mai Linh*, Trần Tuấn*, Đinh Văn Tuyến*, Dương Hồng Đệ*, Nguyễn Hữu Toản*. TÓM TẮT Đặt vấn đề: Rò ống tiêu hoá trên (ROTH) là một biến chứng nặng sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày-tá tràng, việc điều trị rò tiêu hóa gặp nhiều khó khăn. Nghiên cứu này nhằm phân tích các biến chứng xì rò và tử vong sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày-tá tràng. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: phương pháp hồi cứu và phân tích số liệu bệnh nhân rò tiêu hóa sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày-tá tràng; đã được điều trị tại khoa ngoại tiêu hoá bệnh viện Chợ Rẫy từ 12005 đến 12-2007. Kết quả: 24 ca ROTH, gồm 20 nam và 4 nữ, tuổi trung bình là 56 ± 1,44, trong đó mổ chương trình có 8 BN (33,3%) và mổ cấp cưú 16BN (66,67%).với các thương tổn: Rò từ miệng nối vị tràng 6 ca, rò mõm tá tràng 6 ca, rò từ chỗ mở thông dạ dày 2 ca, bục chỗ khâu ổ loét dạ dày-tá tràng 10 ca. Tử vong 8 ca (33,33%). ABSTRACT POSTOPERATIVE GASTRO-DUODENAL FISTULA AND MORTALITY IN GASTRO-DUODENAL DISEASE Phan Duong, Phung Tan Cuong, Ton That Buu, Pham Kim Hieu, Le Hoang Anh, Huynh Thanh Hiep, Nguyen Dung, Tran Thi Mai Linh, Tran Tuan, Dinh Van Tuyen, Duong Hong De, Nguyen Huu Toan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 3 - 2008: 62 – 67 Background: Post-operative gastro-duodenal fistula is a severe complication, treatment for this is difficult. The study aimed at evaluting the complication of fistula and mortality of the posoperative gasto-duodenal. Methods: Retrospective and analytic study. All patients with post-operative gastro-duodenal fistula in gastro-duodenal disease in the department of digestive surgery, Chợ Rẫy hospital were included during 1/2005 – 12/2007. Results: There were 24 patients with post-operative fistula, 20 men and 4 women, mean age is 56 ± 1.44. The operation of program: 5 patients and 19 patients of operative urgent. There are 6 patients of gastroenterotomie anastomose fistula, 6 duodenals leakages, 2 fistulas after gastrostomy, 10 fistulas after the operative of gastro-duodenal perforation. Mortality 33.33%. cơ thể, qua con đường thông thương này dịch Rò ống tiêu hóa trên (ROTH) là một biến tiêu hóa qua lại, và có thể tồn tại trên con đường chứng không hiếm sau các phẫu thuật điều trị đó những ổ nhiễm khuẩn. Tùy loại rò, tùy lượng bệnh lý của dạ dày tá tràng. Biến chứng này có dịch rò, bệnh có thể gây ra những hậu quả trầm khi đơn giản trong điều trị, song cũng lắm lúc đễ trọng, đe dọa sinh mạng người bệnh, tăng chi lại hậu quả nghiêm trọng, thậm chí tử vong. phí điều trị, giảm chất lượng sống của không ít Rò ống tiêu hóa là sự nối liền hai bề mặt biểu bệnh nhân (BN). mô, thuộc hai tạng của ống tiêu hóa, hoặc giữa một tạng của ống tiêu hóa với một khoang trong ROTH đã được nhận biết từ lâu, việc điều trị * Khoa Ngoại tiêu hóa bệnh viện Chợ Rẫy Chuyên Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ 1 cũng được rất nhiều người quan tâm, nhưng phải đến những năm 1960 của thế kỷ trước, người ta mới hoạch định được một chiến lược điều trị dựa trên hai suy đoán: Thứ nhất, với những hiểu biết còn hạn chế về sinh lý bệnh học, người ta giả định ROTH tương tự như thủng tá tràng hoặc thủng ruột do chấn thương, nên điều trị trước hết bằng phẫu thuật với hy vọng đạt được kết quả như khi giải quyết thủng tá tràng, thủng ruột.Thứ hai, người ta tin rằng, chỉ có đóng kín lỗ rò bằng phẫu thuật mới có thể kiểm soát chặt chẽ và đầy đủ nhiễm khuẩn và tình trạng suy dinh dưỡng kèm theo thường gặp ở người bệnh ROTH. Gần đây chiến lược này đã phá sản vì có tới 80% những trường hợp phẫu thuật sớm đã thất bại, tỷ lệ tử vong đạt tới con số kỷ lục từ 40% đến 60% các trường hợp ROTH. Từ những năm 1970, người ta đã lựa chọn một chiến lược khác, đảo ngược hoàn toàn chiến lược ban đầu, tận dụng triệt để liệu pháp dinh dưỡng, kiểm soát chặt chẽ tình trạng nhiễm khuẩn, tạo thuận lợi cho việc đóng kín lỗ rò theo cơ chế tự bổ khuyết cuả cơ thể, và chỉ cho phép phẫu thuật khi các giải pháp điều trị bảo tồn nói trên đã thất bại, hoặc khi xuất hiện các biến chứng có nguy cơ đến mạng sống. Nhờ vậy đã giảm đáng kể tỷ lệ tử vong, nâng cao dần chất lượng sống cho người bệnh. Điều trị bệnh vốn đòi hỏi sự hợp tác của nhiều lĩnh vực, điều trị ROTH càng cần có điều kiện tiên quyết đó để có được một đội ngũ đồng thuận gồm nhiều chuyên gia của các lĩnh vực như hồi sức nội khoa, dinh dưỡng lâm sàng, điều dưỡng và nhà phẫu thuật. Với mong muốn như vậy, chúng tôi xem xét lại những vấn đề thực tế qua 24 trường hợp ROTH, nhấn mạnh những lợi ích và vị trí của những giải pháp kỹ thuật trong việc điều trị ROTH để đạt tới những thành quả mong đợi. Mục tiêu nghiên cứu Phân tích biến chứng và tử vong do ROTH sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày – tá tràng. Đ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Biến chứng xì rò và tử vong sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày tá tràng BIẾN CHỨNG XÌ RÒ VÀ TỬ VONG SAU PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ BỆNH DẠ DÀY TÁ TRÀNG Phan Đương* Phùng Tấn Cường*, Tôn Thất Bửu*, Phạm Kim Hiếu*, Lê Hoàng Anh*, Huỳnh Thanh Hiệp*, Nguyễn Dũng*, Trần Thị Mai Linh*, Trần Tuấn*, Đinh Văn Tuyến*, Dương Hồng Đệ*, Nguyễn Hữu Toản*. TÓM TẮT Đặt vấn đề: Rò ống tiêu hoá trên (ROTH) là một biến chứng nặng sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày-tá tràng, việc điều trị rò tiêu hóa gặp nhiều khó khăn. Nghiên cứu này nhằm phân tích các biến chứng xì rò và tử vong sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày-tá tràng. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: phương pháp hồi cứu và phân tích số liệu bệnh nhân rò tiêu hóa sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày-tá tràng; đã được điều trị tại khoa ngoại tiêu hoá bệnh viện Chợ Rẫy từ 12005 đến 12-2007. Kết quả: 24 ca ROTH, gồm 20 nam và 4 nữ, tuổi trung bình là 56 ± 1,44, trong đó mổ chương trình có 8 BN (33,3%) và mổ cấp cưú 16BN (66,67%).với các thương tổn: Rò từ miệng nối vị tràng 6 ca, rò mõm tá tràng 6 ca, rò từ chỗ mở thông dạ dày 2 ca, bục chỗ khâu ổ loét dạ dày-tá tràng 10 ca. Tử vong 8 ca (33,33%). ABSTRACT POSTOPERATIVE GASTRO-DUODENAL FISTULA AND MORTALITY IN GASTRO-DUODENAL DISEASE Phan Duong, Phung Tan Cuong, Ton That Buu, Pham Kim Hieu, Le Hoang Anh, Huynh Thanh Hiep, Nguyen Dung, Tran Thi Mai Linh, Tran Tuan, Dinh Van Tuyen, Duong Hong De, Nguyen Huu Toan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 3 - 2008: 62 – 67 Background: Post-operative gastro-duodenal fistula is a severe complication, treatment for this is difficult. The study aimed at evaluting the complication of fistula and mortality of the posoperative gasto-duodenal. Methods: Retrospective and analytic study. All patients with post-operative gastro-duodenal fistula in gastro-duodenal disease in the department of digestive surgery, Chợ Rẫy hospital were included during 1/2005 – 12/2007. Results: There were 24 patients with post-operative fistula, 20 men and 4 women, mean age is 56 ± 1.44. The operation of program: 5 patients and 19 patients of operative urgent. There are 6 patients of gastroenterotomie anastomose fistula, 6 duodenals leakages, 2 fistulas after gastrostomy, 10 fistulas after the operative of gastro-duodenal perforation. Mortality 33.33%. cơ thể, qua con đường thông thương này dịch Rò ống tiêu hóa trên (ROTH) là một biến tiêu hóa qua lại, và có thể tồn tại trên con đường chứng không hiếm sau các phẫu thuật điều trị đó những ổ nhiễm khuẩn. Tùy loại rò, tùy lượng bệnh lý của dạ dày tá tràng. Biến chứng này có dịch rò, bệnh có thể gây ra những hậu quả trầm khi đơn giản trong điều trị, song cũng lắm lúc đễ trọng, đe dọa sinh mạng người bệnh, tăng chi lại hậu quả nghiêm trọng, thậm chí tử vong. phí điều trị, giảm chất lượng sống của không ít Rò ống tiêu hóa là sự nối liền hai bề mặt biểu bệnh nhân (BN). mô, thuộc hai tạng của ống tiêu hóa, hoặc giữa một tạng của ống tiêu hóa với một khoang trong ROTH đã được nhận biết từ lâu, việc điều trị * Khoa Ngoại tiêu hóa bệnh viện Chợ Rẫy Chuyên Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ 1 cũng được rất nhiều người quan tâm, nhưng phải đến những năm 1960 của thế kỷ trước, người ta mới hoạch định được một chiến lược điều trị dựa trên hai suy đoán: Thứ nhất, với những hiểu biết còn hạn chế về sinh lý bệnh học, người ta giả định ROTH tương tự như thủng tá tràng hoặc thủng ruột do chấn thương, nên điều trị trước hết bằng phẫu thuật với hy vọng đạt được kết quả như khi giải quyết thủng tá tràng, thủng ruột.Thứ hai, người ta tin rằng, chỉ có đóng kín lỗ rò bằng phẫu thuật mới có thể kiểm soát chặt chẽ và đầy đủ nhiễm khuẩn và tình trạng suy dinh dưỡng kèm theo thường gặp ở người bệnh ROTH. Gần đây chiến lược này đã phá sản vì có tới 80% những trường hợp phẫu thuật sớm đã thất bại, tỷ lệ tử vong đạt tới con số kỷ lục từ 40% đến 60% các trường hợp ROTH. Từ những năm 1970, người ta đã lựa chọn một chiến lược khác, đảo ngược hoàn toàn chiến lược ban đầu, tận dụng triệt để liệu pháp dinh dưỡng, kiểm soát chặt chẽ tình trạng nhiễm khuẩn, tạo thuận lợi cho việc đóng kín lỗ rò theo cơ chế tự bổ khuyết cuả cơ thể, và chỉ cho phép phẫu thuật khi các giải pháp điều trị bảo tồn nói trên đã thất bại, hoặc khi xuất hiện các biến chứng có nguy cơ đến mạng sống. Nhờ vậy đã giảm đáng kể tỷ lệ tử vong, nâng cao dần chất lượng sống cho người bệnh. Điều trị bệnh vốn đòi hỏi sự hợp tác của nhiều lĩnh vực, điều trị ROTH càng cần có điều kiện tiên quyết đó để có được một đội ngũ đồng thuận gồm nhiều chuyên gia của các lĩnh vực như hồi sức nội khoa, dinh dưỡng lâm sàng, điều dưỡng và nhà phẫu thuật. Với mong muốn như vậy, chúng tôi xem xét lại những vấn đề thực tế qua 24 trường hợp ROTH, nhấn mạnh những lợi ích và vị trí của những giải pháp kỹ thuật trong việc điều trị ROTH để đạt tới những thành quả mong đợi. Mục tiêu nghiên cứu Phân tích biến chứng và tử vong do ROTH sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày – tá tràng. Đ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí y học Nghiên cứu y học Biến chứng xì rò và tử vong Phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày tá tràng Bệnh dạ dày tá tràngTài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 320 0 0 -
5 trang 312 0 0
-
8 trang 267 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 257 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 242 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 228 0 0 -
13 trang 211 0 0
-
5 trang 210 0 0
-
8 trang 208 0 0
-
9 trang 206 0 0