Thông tin tài liệu:
Biện pháp hạn chế vi khuẩn kháng kháng sinh
Vi khuẩn ngày càng có xu hướng kháng lại các thuốc kháng sinh ngay cả những loại kháng sinh thế hệ mới. Qua các công trình nghiên cứu ở nhiều cơ sở bệnh viện khác nhau và ở các lĩnh vực khác nhau tại Việt Nam cho thấy, có rất nhiều loại vi khuẩn không những chỉ kháng lại một hay hai loại thuốc kháng sinh mà còn kháng lại nhiều thuốc kháng sinh. Vi khuẩn kháng kháng sinh có nhiều cơ chế khác nhau và cũng có nhiều nguyên nhân làm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Biện pháp hạn chế vi khuẩn kháng kháng sinh
Biện pháp hạn chế vi khuẩn
kháng kháng sinh
Vi khuẩn ngày càng có xu hướng kháng lại các thuốc kháng sinh ngay cả những loại
kháng sinh thế hệ mới. Qua các công trình nghiên cứu ở nhiều cơ sở bệnh viện khác nhau
và ở các lĩnh vực khác nhau tại Việt Nam cho thấy, có rất nhiều loại vi khuẩn không
những chỉ kháng lại một hay hai loại thuốc kháng sinh mà còn kháng lại nhiều thuốc
kháng sinh.
Vi khuẩn kháng kháng sinh có nhiều cơ chế khác nhau và cũng có nhiều nguyên nhân
làm cho vi khuẩn kháng thuốc.
Một số nét về kháng sinh
Kháng sinh là một chất mà ở ngay nồng độ thấp Muốn biết có nên dùng kháng sinh
cũng có thể ức chế hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Nguồn hay chưa phải cho người bệnh đi
gốc của kháng sinh có thể từ thiên nhiên hoặc kháng khám bệnh. Phải được bác sĩ khám
sinh có nguồn gốc từ tổng hợp hoặc bán tổng hợp. bệnh khi nghi bị bệnh nhiễm trùng.
Người ta chia kháng sinh thành 3 loại, đó là kháng Tuyệt đối không tự động mua
sinh đặc hiệu, kháng sinh phổ rộng và kháng sinh thuốc kháng sinh để dùng cho bản
phổ hẹp. Kháng sinh đặc hiệu là các loại kháng sinh thân hoặc người nhà.
có khả năng tác động lên một loại vi khuẩn hay một
nhóm vi khuẩn nhất định (Spectinomycin tác động lên vi khuẩn lậu). Các loại kháng sinh
phổ rộng có hoạt tính đối với nhiều loại vi khuẩn khác nhau. Kháng sinh phổ hẹp là các
loại kháng sinh chỉ tác động lên một số vi khuẩn mà thôi. Về nguyên tắc, chỉ sử dụng
kháng sinh để điều trị các bệnh do vi khuẩn gây nên (hoặc vi nấm), không dùng kháng
sinh để điều trị bệnh do virut gây ra. Khi kháng sinh được đưa vào cơ thể có thể theo
đường uống, đường tiêm, qua niêm mạc hoặc ngấm qua da nhưng dù hình thức nào đi
nữa thì kháng sinh cũng tác động lên bản thân vi khuẩn để làm cho chúng ngưng hoạt
động hoặc chết.
Vi khuẩn kháng lại kháng sinh, vì sao?
Có nhiều cơ chế kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn như vi khuẩn sản xuất ra enzym
phá huỷ hoạt tính của thuốc; vi khuẩn làm thay đổi khả năng thẩm thấu của màng tế bào
đối với thuốc. Thông dụng nhất là do nguồn gốc di truyền và không do di truyền của vi
khuẩn. Những nguồn gốc không do di truyền như vi khuẩn không nhân lên được dẫn đến
kháng thuốc hoặc những thế hệ sau của vi khuẩn có thể do quen thuốc dẫn đến kháng
thuốc (yếu tố này liên quan mật thiết đến việc sử dụng kháng sinh không hợp lý do người
bệnh hoặc do thầy thuốc gây ra). Kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn cũng có thể do
mất điểm gắn đặc biệt dành cho thuốc trên thân vi khuẩn… Phần lớn vi khuẩn kháng
thuốc là do di truyền hoặc do đột biến gen, đột biến nhiễm sắc thể, trong đó đáng quan
tâm nhất là di truyền do plasmid…
Làm kháng sinh đồ.
Một số biện pháp nhằm ngăn chặn vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh
Hiện nay, vi khuẩn có xu hướng kháng lại một hoặc nhiều loại thuốc kháng sinh gọi là vi
khuẩn đa đề kháng. Ví dụ như vi khuẩn tụ cầu, trong đó tụ cầu vàng (S.aureus), trực
khuẩn mủ xanh (P.aeruginosa), E.coli, lậu cầu, vi khuẩn lao, vi khuẩn lỵ (Shigella)…
kháng lại rất nhiều loại kháng sinh. Việc vi khuẩn kháng lại kháng sinh và kháng lại
nhiều kháng sinh trong một thời điểm, gây không ít khó khăn cho việc điều trị các bệnh
nhiễm khuẩn, đặc biệt là các bệnh nhiễm khuẩn nặng, cấp tính như nhiễm trùng vết
thương, nhiễm trùng vết mổ, nhiễm trùng huyết, áp-xe phủ tạng, bệnh lao phổi, viêm
đường sinh dục - tiết niệu… Để hạn chế vi khuẩn kháng thuốc, trước hết cần lưu ý là chỉ
khi nào mắc bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn mới dùng thuốc kháng sinh. Hiện nay, việc
tự động mua thuốc kháng sinh để dùng và việc dược tá tự do bán thuốc kháng sinh khi
người mua yêu cầu là khá phổ biến, chính lý do này càng làm cho vi khuẩn kháng thuốc
tăng lên. Khi đã được bác sĩ khám và kê đơn mua thuốc kháng sinh thì cần tuyệt đối tuân
thủ theo chỉ định của bác sĩ, không nên tự động thay đổi thuốc, thay đổi liều lượng hoặc
thay đổi cách dùng thuốc khác với đơn của bác sĩ đã cho (ví dụ đổi thuốc kháng sinh hoặc
dùng được vài ba hôm thấy hết sốt thì ngưng không dùng kháng sinh…). Khi bị bệnh
nhiễm trùng do vi khuẩn (bác sĩ đã xác định) thì bác sĩ cần cho bệnh nhân dùng một trong
các loại thuốc có phổ hẹp ngay từ ban đầu, không nên cho kháng sinh phổ rộng dễ dẫn
đến vi khuẩn kháng thuốc. Hiện nay, ở nhiều cơ sở đã có khả năng thử nghiệm xác định
độ nhạy cảm của vi khuẩn với kháng sinh (gọi là kỹ thuật kháng sinh đồ), vì vậy bác sĩ
nên dựa vào kết quả đó để lựa chọn kháng sinh cho thích hợp, trong trường hợp chưa có
kỹ thuật này thì nên dựa vào phác đồ điều trị của Bộ Y tế để thực hiện. Ngoài ra, bác sĩ
kê đơn cũng cần dựa vào tính động học của thuốc kháng sinh, dựa vào tính chất của từng
loại thuốc kháng sinh (ví dụ trẻ em không dùng những loại thuốc gì) và không nên dùng
kháng sinh phổ rộng hay kháng sinh thế hệ mới ngay từ lần đầu tiên điều trị cho người
bệnh. Nếu không tuân thủ các nguyên tắc cơ bản này thì rất dễ làm cho vi khuẩn ...