Để khắc phục những bất lợi của phác đồ dài cổ điển sử dụng GnRH agonist, gần đây, GnRH antagonist (ganirelix, cetrorelix) đã được đưa vào sử dụng trong kích thích buồng trứng để làm thụ tinh trong ống nghiệm. Với kỹ thuật TTTON – cho trứng, ngoài những ưu điểm chung so với GnRH agonist, sử dụng ganirelix mang lại những thuận tiện tối đa cho bệnh nhân như rút ngắn thời gian điều trị nhất là cho những bệnh nhân ở xa, giảm nguy cơ hoãn chu kỳ điều trị do người cho trứng có thai trong...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BỔ SUNG LH TRONG KÍCH THÍCH BUỒNG TRỨNG
BỔ SUNG LH TRONG KÍCH THÍCH
BUỒNG TRỨNG
GIỚI THIỆU
Để khắc phục những bất lợi của phác đồ dài cổ điển sử dụng GnRH agonist, gần
đây, GnRH antagonist (ganirelix, cetrorelix) đ ã được đưa vào sử dụng trong kích
thích buồng trứng để làm thụ tinh trong ống nghiệm. Với kỹ thuật TTTON – cho
trứng, ngoài những ưu điểm chung so với GnRH agonist, sử dụng ganirelix mang
lại những thuận tiện tối đa cho bệnh nhân nh ư rút ngắn thời gian điều trị nhất l à
cho những bệnh nhân ở xa, giảm nguy cơ hoãn chu kỳ điều trị do người cho trứng
có thai trong thời gian chờ tiêm thuốc hay thay đổi ý định cho trứng. Cho đến nay,
nghiên cứu sử dụng GnRH antagonist trong kích thích buồng trứng ở người cho
trứng còn ít, thiết kế nghiên cứu hồi cứu và cỡ mẫu nhỏ và nhất là chưa có nghiên
cứu nào sử dụng ganirelix trong TTTON – cho trứng. Theo sự hiểu biết của chúng
tôi, đây là nghiên cứu được thực hiện đầu tiên trên thế giới nhằm so sánh hiệu quả
của phác đồ sử dụng ganirelix và phác đồ dài trong kích thích buồng trứng ở người
cho trứng - thụ tinh trong ống nghiệm.
CÁCH THỰC HIỆN
Nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng được thực hiện trên
các trường hợp TTTON – cho trứng, thực hiện tại Khoa Hiếm Muộn, bệnh viện
Từ Dũ từ tháng 12/2003 đến tháng 10/2004. Các chu kỳ điều trị đ ược ngẫu nhiên
chia vào 2 nhóm:
Nhóm phác đồ dài (nhóm Buserelin): người cho trứng được kích thích
buồng trứng bằng phác đồ dài sử dụng GnRHa (buserelin, Hoescht) từ ngày
kinh thứ 21 của chu kỳ với liều 0,5 mg/ngày trong 14 ngày, sau đó, kết hợp
buserelin 0,2 mg/ngày và FSH tái tổ hợp (Puregon, Organon) với liều đầu
tùy tiên lượng từng người cho trứng.
Nhóm phác đồ ganirelix (nhóm Orgalutran): người cho trứng được kích
thích buồng trứng bằng phác đồ ganirelix (Orgalutran, Organon). Người
cho trứng được tiêm FSH tái tổ hợp (Puregon, Organon) từ ngày 2 của chu
kỳ, khi có ít nhất 1 nang đạt được kích thước 14 mm, người cho trứng được
bắt đầu sử dụng Orgalutran 0,25 mg/ngày. Các qui trình khác được thực
hiện tương tự giữa 2 nhóm.
Orgalutran Buserelin
p
N = 98 N = 124
Số trứng chọc 14.9 + 8.3 16.3 + 11.1 0.2
hút
9.0 + 5.5 9.6 + 4.8 0.3
Số phôi
3.3 + 3.2 4.1 + 3.2 0.07
Số phôi tốt
4.8 + 1.1 4.9 + 1.0 0.5
Số phôi
1.9 + 3.6 2.1 + 2.9 0.6
chuyển vào tử
người 53.1% 40.3% 0.07
cung
nhận
13.0% 11.5% 0.7
Số phôi trữ
Tỉ lệ thai lâm
sàng
Tỉ lệ làm tổ
của phôi
KẾT QUẢ
Tổng cộng 222 chu kỳ TTTON – cho trứng đã được nhận vào nghiên cứu, trong
đó, nhóm buserelin gồm 124 bệnh nhân và nhóm Orgalutran gồm 98 bệnh nhân.
Hầu hết các đặc điểm bệnh nhân và các dữ liệu lâm sàng đều tương đương ở 2
nhóm. Ngoại trừ, nhóm sử dụng Orgalutran có số ngày sử dụng FSH ngắn hơn
(9,7 + 1,2 so với 10.8 + 1.0 ngày; pNghiên cứu của chúng tôi ghi nhận nội mạc tử cung của người cho trứng (có chịu
tác động của GnRH antagonist) mỏng hơn ở nhóm có sử dụng Orgalutran. Trong
khi đó, nội mạc tử cung ở người nhận trứng (không chịu tác động của GnRH
antagonist) ở 2 nhóm nghiên cứu là bằng nhau, hơn nữa, tỉ lệ làm tổ của phôi và tỉ
lệ thai lâm sàng ở nhóm Orgalutran là cao hơn so với nhóm buserelin (53,1% và
13% so với 40,3% và 11,3%). Như vậy, có thể nói, GnRH antagonist có thể gây
một số tác động bất lợi trên sự chấp nhận của nội mạc tử cung. Do đó, TTTON –
cho trứng là mô hình sử dụng GnRH antagonist rất hiệu quả do tận dụng được các
ưu điểm của GnRH antagonist, đồng thời loại trừ tác dụng bất lợi của GnRH
antagonist lên NMTC.
Tác động của ganirelix trên buồng trứng và chất lượng trứng
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận có 13,3% chu kỳ sử dụng Orgalutran có trứng
quá mức trưởng thành (postmature). Tuy nhiên, một nghiên cứu khác lại ghi nhận
8% các trứng chọc hút được bị non (pre-mature). Về chất lượng phôi, cũng như
các nghiên cứu khác, chúng tôi thấy rằng chất lượng phôi là tương đương giữa 2
nhóm.Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận thời gian kích thích buồng trứng có li ên
quan đến chất lượng trứng quá mức trưởng thành. Một số giả thuyết chúng tôi đưa
ra để giải thích cho hiện tượng này như sau:
Giả thuyết 1: “LH rò rỉ” (LH leakage)
Giả thuyết dựa trên sự khác biệt về cơ chế tác động của GnRH agonist và
antagonist. GnRH agonist điều hòa giảm thụ thể GnRH tại tuyến yên và làm trống
dự trữ gonadotropin tại tuyến yên. Trong khi đó, GnRH antagonist chỉ ức chế cạnh
tranh tại thụ thể GnRH ở tuyến yên để ngăn giải phóng LH nội sinh. Như vậy, dự ...