Xuân Canh Dần năm nay, Bia đề danh tiến sỹ ở Văn Miếu – Quốc tử giám được vinh danh là di sản văn hóa thế giới. Với những ai yêu mến kho tàng mỹ thuật cổ truyền của cha ông, đấy là niềm vui lớn... nhưng không trọn vẹn. Không phải những tấm bia đá – những pho sử văn hiến của dân tộc không xứng tầm nhân loại, mà chính là những nghiên cứu, bảo tồn của thế hệ hậu sinh của chúng ta chưa tương xứng. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BỘN BỀ PHO SỬ ĐÁ
BỘN BỀ PHO SỬ ĐÁ
Tượng Rùa đội bia ở Văn Miếu, Hà Nội
Xuân Canh Dần năm nay, Bia đề danh tiến sỹ ở Văn Miếu – Quốc tử giám được
vinh danh là di sản văn hóa thế giới. Với những ai yêu mến kho tàng mỹ thuật cổ
truyền của cha ông, đấy là niềm vui lớn... nhưng không trọn vẹn. Không phải
những tấm bia đá – những pho sử văn hiến của dân tộc không xứng tầm nhân loại,
mà chính là những nghiên cứu, bảo tồn của thế hệ hậu sinh của chúng ta chưa
tương xứng. Đã nhiều lần chứng kiến từng đoàn nam thanh nữ tú lũ lượt lướt qua
những hàng bia, tôi thấu hiểu sự cảnh báo của các nhà văn hóa về hiện tượng đứt
đoạn văn hóa truyền thống (Phản ứng trước hiện trạng này, nghệ sỹ Phạm Huy
Thông đã thực hành một trình diễn tại Văn Miếu có tên Sờ thấy vinh quang).
Những loạn lạc thời Vua Lê chúa Trịnh, thời Tây Sơn đã làm nên sự xáo trộn tai
hại này. Nhiều bia bị gãy vỡ nên khi lắp lại có sự thiếu hụt và nhầm lẫn. Rùa đội
bia đề danh tiến sỹ khoa thi Giáp Thìn năm 1724 nằm ở dãy nhà bia phía bên tay
trái - đi từ ngoài vào, hàng bia thứ hai vị trí số ba – là đầu rùa siêu mỏng trong 82
cụ rùa ở đây... vốn được làm từ một thân bia. Nên ở cổ cụ rùa này vẫn còn lác đác
những dòng chữ. Chữ tuy hơi mờ nhưng nếu có thác bản thì vẫn có thể đọc tốt,
nhìn loáng thoáng tên người, chức vị. Một bên má rùa có 17 chữ, ghi 05 tên người
họ Nguyễn, bên kia có 11 chữ; đặc biệt có viết chức danh đại phu thái bảo của một
vị quan nào đó.
1. Pho sử đá và chân dung kẻ sỹ
So với rùa ở Văn Miếu (Huế), rùa ở đây không còn là một con rùa sinh vật cụ thể
như chúng ta từng biết, nó mang dáng vẻ quắc thước, nghiêm nghị với dáng đầu
vươn thẳng, hàng lông mày đậm, đôi mắt mở to, miệng rộng lộ hai chiếc răng
nanh. Có lẽ vì thế mà chúng ta vẫn thường gọi cụ rùa Văn Miếu như thường gọi cụ
rùa Hồ Gươm.
Thậm chí ở bia khoa thi Dương Hòa thứ 6 (1640) được dựng năm Thịnh Đức thứ 1
(1653), đầu rùa còn có một đám tóc xoắn tít như vân mây (người viết ngờ rằng
chiếc bia này bệ rùa và thân bia không cùng niên đại). Tạo hình rùa đội bia ở mỗi
giai đoạn rất khác nhau, không phải chỉ riêng chiếc đầu mà còn cả tư thế toàn thân.
Nếu không phải là các nhà nghiên cứu mỹ thuật, không mấy ai biết rằng những
con rùa thời đầu (thời Lê Sơ) không hề đội bia nằm bất động - mà dường như
chúng đang nhẹ nhàng bơi một cách khoan thai. Càng về sau, những tư thế cửu
vạn càng rõ, đầu rùa không còn ngẩng cao đầy kiêu hãnh, chân rùa giờ đầy đã xòe
các ngón bám chặt lấy nền, thể hiện sức nặng của tấm bia đá chất lên lưng. Đúng
như câu ca: Thương thay thân phận con rùa - Lên đình đội hạc xuống chùa đội bia.
Quan sát vẻ đẹp tạo hình bia đá ở Văn Miếu có thể nhận thấy rõ ràng có sự thay
đổi việc chú trọng xử lý hình khối đường nét từ rùa chuyển sang bia, hay cụ thể
hơn là ở giai đoạn đầu công phu tập trung ở thần thái đầu r ùa, về sau công phu
chuyển sang trán bia hoặc diềm bia. Chẳng những đầu rùa được xử lý rất tinh tế
mà cả những đường cong uốn lượn của mai rùa cũng thực sự mềm mại. Nói đến
bia đá bảng vàng ta nghĩ ngay đến rồng phượng, nhưng ở Văn Miếu, phải đến bia
thứ 16, Văn bia đề danh tiến sỹ khoa thi ất Sửu niên hiệu Chính Trị thứ 8 (1565)
rồng mới xuất hiện. Nhưng đến bia khoa thi năm Tân Mùi (1631) thì rồng lại biến
mất và thay vào đó là mây khói, hoa lá dày đặc, xoắn xuýt, hiện tượng này tiếp tục
lặp lại ở bia số 40 khoa thi Bính Thân ( 1956). Như vậy, rồng lúc có lúc không,
nhưng rùa thì lúc nào cũng phải đội bia gánh vác sơn hà xã tắc như thân phận kẻ
sỹ nay cũng không khác xưa là bao.
Rùa thụt đầu vào mai để ngủ hay được dùng ám chỉ người lảng tránh với những
vấn đề xung quanh, lảng tránh trách nhiệm xã hội. Nhưng ở đây, ở nhóm bia thứ I
rùa bao giờ cũng ngẩng đầu kiêu hãnh. Lặng nhìn hồi lâu trước cụ rùa ở tấm bia
khoa thi năm 1442 ta như được thấy đây vóc dáng các vị tiên hiền từng gắn bó với
nền quốc học, với văn miếu Quốc tử giám như Chu Văn An, Nguyễn Phi Khanh,
Lý Tử Tấn, Ngô Sỹ Liên, Nguyễn Trãi, Thân Nhân Trung, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Khản...
2. Tại sao người Việt xưa nay không có tục sờ đầu rùa?
Rùa là loài vật linh thiêng gắn bó sâu sắc với lịch sử và đời sống tâm linh của cộng
đồng người Việt từ miền ngược đến miền xuôi. Theo các nhân viên bảo vệ lâu
năm ở Văn Miếu, tục xoa đầu rùa chỉ phát sinh từ những năm 95 của thế kỷ trước.
Và cho đến nay, ở Huế, cụ thể hơn là Văn Miếu Huế, cũng không hề có tục xoa
đầu rùa. ở Việt Nam, chỉ có người lớn mới xoa đầu trẻ con chứ không có chuyện
ngược lại.
Quan sát những du khách Trung Quốc, ta thấy họ cũng hay sờ đầu rùa hơn du
khách đến từ các quốc gia khác.
Tục xoa đầu Bi Hí của người Hoa
Con Bí hí đội bia thường xuất hiện ở loại bia đề danh công trạng, nói theo thuật
ngữ Hán là hiển tích bi. Theo truyền thuyết, rồng sinh ra chín con không giống
nhau, mỗi đứa một tính nết. Đứa thì hiếu sát ( Nhai Xế), đứa thì thích đội vác ( Bí
hí) đứa thì thích phun nước ( Si Vẫn)...đứa thì thích tiếng vang ( Bồ Lao)...đúng là
trời sinh tính và không có đứa nào tr ...