Danh mục

BỨC TRANH VẼ MÃI KHÔNG RỒI

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 182.45 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (11 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tôi từng gặp họa sĩ Khánh Tường hai lần. Lần đầu trong một buổi gặp mặt thân hữu năm 1990 ở California. Lần sau, năm 1992, cũng trong lúc có đông đảo các bạn khác ở Canada. Từ đó đến nay chưa gặp lại. Chỉ đôi ba lần liên lạc với nhau, một cách vội vã ngắn gọn, qua điện thoại và thư từ. Nói rõ ra, ông KT và tôi không biết nhau nhiều, không “thân”, không “đi lại”. Ấy mà chúng tôi cùng chia sẽ đôi điều hiếm hoi : chúng tôi là những người cầm cọ vẽ mà...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BỨC TRANH VẼ MÃI KHÔNG RỒI BỨC TRANH VẼ MÃI KHÔNG RỒI Võ Đình Tôi từng gặp họa sĩ Khánh Tường hai lần. Lần đầu trong một buổi gặp mặt thân hữu năm 1990 ở California. Lần sau, năm 1992, cũng trong lúc có đông đảo các bạn khác ở Canada. Từ đó đến nay chưa gặp lại. Chỉ đôi ba lần liên lạc với nhau, một cách vội vã ngắn gọn, qua điện thoại và thư từ. Nói rõ ra, ông KT và tôi không biết nhau nhiều, không “thân”, không “đi lại”. Ấy mà chúng tôi cùng chia sẽ đôi điều hiếm hoi : chúng tôi là những người cầm cọ vẽ mà chúng tôi cũng là những người yêu cầm bút viết. Ông KT thua tôi về tuổi tác nhưng hơn tôi ở chổ ngoài vẽ và viết còn có sức gồng mình vất vả mấy năm nay với nghiệp làm báo văn học nghệ thuật. Họa phẩm KT, tôi chỉ được biết qua năm ba bức tranh in lại. Nhưng tôi nghĩ rằng ông say mê hội họa hết mình vì một bài viết của chính ông, Bức Tranh Không Bao Giờ Vẽ (Hợp Lưu số 10, tháng 4 & 5, năm 1993), bài viết ông tặng họa sĩ Rừng. Đọc bài viết đó thấy rõ ông KT thật lòng yêu hội họa. Tôi nói vậy vì tôi biết có khá nhiều người tuy rằng tiếng gọi là họa sĩ nhưng chẳng thấy thiết tha cho lắm với hội họa. Thường xuyên cầm cọ, sử dụng màu sắc, sản xuất những cái gọi là họa phẩm, không nhất thiết là có một tấm lòng yêu hội họa mãnh liệt và sâu xa. Đọc bài đó cũng thấy rõ ông KT có nhiều khổ tâm về hội họa. Ông bứt rứt băn khoăn về cái vẽ. Ông vất vả tìm tòi. “Mấy mươi năm, đã vài trăm bức tranh được vẽ, đã gấp đôi gắp ba số tranh ấy là những bứt phác thảo, về đủ mọi đề tài” (…)”Vẽ một góc phó hoang tịch trong màu chiều với các chi tiết đặc thù như thế nào khó khăn gì, nhất là đề tài tứng bám rễ trong đầu suốt thời gian dài, đến thuộc lòng, đến có thể đưa lên khung bố từng nhát màu, ở từng vị trí mà không cần nhiều đắn đo cân nhắc”. “Những cái chưa vẽ, hoặc sẽ không bao giờ vẽ, sẽ mãi mãi là nỗi ám ảnh triền miên trong đầu của mỗi họa sĩ. Nó là phần sâu kín nằm dưới đáy tiềm thức dù đã được biểu hiện cụ thể qua vài hình ảnh nào đó”. Nổi bật trong bài viết của KT là ý niệm của ông về người họa sĩ chiêm nghiệm, tìm tòi, tiến dần về cái thấy của mình, nhưng rồi tìm mãi, đi mãi, nghĩa là trầy vi tróc vảy mãi, rốt cuộc bức tranh chưa vẽ hoặc sẽ không bao giờ vẽ mãi mãi là niềm khát vọng khôn nguôi. Và bởi mang lấy nghiệp vào thân, hắn không ngừng tìm cách lấp đầy khát vọng đó bằng hành động đày ải chính mình, giữa vòng tròn khép: vẽ, tìm kiếm – tìm kiếm, vẽ – vẽ, tìm kiếm. Cứ thế, từ buổi đầu chập chững “vọc sơn” cho đến lúc tay run mắt mờ, hắn không thể nhận ra sự thật buồn bã này: Những cái hắn vẽ chỉ là những bản nháp, những phát thảo cho một tác phẩm nào đó của tương lai.” Đến đây, phải nói là tôi “có vấn đề” với ông KT. Trong một bài viết trước đây 3 năm, tôi có ví cái công việc sáng tạo với quá trình… thụ thai và sinh nở của người nữ. Bây giờ tôi hãy nói thêm: không phải cứ phận làm mẹ mang nặng đẻ đau thì đâu vào đó, mẹ tròn con vuông, vui vẻ cả nhà. Sáng tác gia, biết bao người mang nặng đẻ đau nhưng không phải ai cũng được may mắn suông sẻ. Đẻ non, đẻ ngược, đẻ con tật nguyền, đẻ con tử sản. Có khi con không hề hấn gì thì mẹ lại vượt cạn muôn trùng hiểm nguy, băng huyết, hậu sản, tử vong v.v… Ông KT “không ngừng tìm cách lấp đầy khát vọng” sanh đứa con lý tưởng (vẽ bức tranh chưa vẽ) “bằng hành động đày ải chính mình giữa một vòng tròn khép”. Tôi thương ông vất vả như tôi thương tất cả những ai đeo đuổi công việc sáng tác từng niếm mùi cay đắng, thất bại, khổ đau. Nhưng tôi cũng “có vấn đề” với ông vì tôi nghĩ rằng chính ông là người đang làm khổ lấy mình. Tôi không đề nghị ông chấm dứt công việc bất tận “vẽ, tìm kiếm – tìm kiếm, vẽ – vẽ, tìm kiếm”. Tôi chỉ muốn nói về một cái nhìn khác. * Tôi sinh trưởng ở cố đô Huế. Chế ngự kho tàng hình ảnh trong trí nhớ thời niên thiếu là thành quách đền đài, chùa chiền miếu mạo. Nhớ về quê hương là nhớ về những cảnh tượng hùng vĩ thâm u, là nhớ đến cái không khí đoan nghiêm cẩn mật. Từ cửa Ngọ Môn sừng sững uy nghi cho đến ngôi miếu nát trong khu vườn hoang lạnh. Từ chùa Thiên Mụ trên đồi cao hoang tĩnh cho đến những cái “trang” nhỏ nằm rải rác chốn bụi bờ. Ấn tượng sâu đậm của một thế giới với nhiều màu sắc vốn rực rỡ nhưng đã phai nhòa, những bài biện huê dạng nhưng đỗ nát. Quá khứ có mặt ở đây, hương sắc mà điêu tàn, cao sang mà áo não. Có lẽ vì thế mà ở tuổi mưới bốn mưới lăm tôi đã yêu mê yêu mệt câu thơ Huy Cận: Trên thành son nhạt chiều tê cúi đầu. Cái “thành son nhạt” kia không phải chỉ là bóng dáng rơi rớt của chốn thần kinh, nơi chôn rau cắt rốn của bản thân tôi. Xa cách quê hương cùng lục địa, từng đại dương, người họa sĩ trẻ mấy chục năm về trước đã lắm lúc cọ vẽ trong tay, thả hồn về thành Quy Nhơn, trấn Gia Định, về thăm cửa ô Hà Nội, những nơi chốn chưa bao giờ thấy tận mắt. Cũng như mấy chục năm sau ở Paris, một Trần Vũ tưởng tượng ra những mái ngói âm dương “phố cổ Hội An”, người họa sĩ trẻ năm xưa đã có lúc hình dung Lạc Long Quân, mắt sáng như sao ngồi cạnh bà Âu Cơ nghi ...

Tài liệu được xem nhiều: