Danh mục

Bước đầu ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng đánh giá tồn lưu tế bào ác tính tổ hợp GEN TEL-AML1 tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 344.47 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nội dung bài viết nhằm nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng (RQ‐PCR) trong đánh giá tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) trên bệnh nhân bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) có mang tổ hợp gen TEL‐AML1. Nghiên cứu trên 13 bệnh nhân được chẩn đoán BCCDL‐B có biểu hiện TEL‐AML1 bằng RT‐PCR và FISH được khảo sát TLTBAT lúc chẩn đoán và trong quá trình theo dõi điều trị bằng kỹ thuật RQ‐PCR sử dụng Taqman Probe.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bước đầu ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng đánh giá tồn lưu tế bào ác tính tổ hợp GEN TEL-AML1 tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 BƯỚC ĐẦU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT PCR ĐỊNH LƯỢNG   ĐÁNH GIÁ TỒN LƯU TẾ BÀO ÁC TÍNH TỔ HỢP GEN TEL‐AML1   TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU HUYẾT HỌC  Nguyễn Thị Minh Yên*, Phan Thị Xinh**  TÓM TẮT  Mục tiêu: Ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng (RQ‐PCR) trong đánh giá tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT)  trên bệnh nhân (BN) bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) có mang tổ hợp gen TEL‐AML1.  Đối tượng và phương pháp: 13 BN được chẩn đoán BCCDL‐B có biểu hiện TEL‐AML1 bằng RT‐PCR và  FISH được khảo sát TLTBAT lúc chẩn đoán và trong quá trình theo dõi điều trị bằng kỹ thuật RQ‐PCR sử dụng  Taqman Probe.  Kết  quả  nghiên  cứu:  Trước điều trị, hầu hết các BN đều có biểu hiện TEL‐AML1 ở mức độ cao với kỹ  thuật RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH. Sau khi hoàn tất giai đoạn tấn công, có 5 trong 13 BN (38,46%) thì vẫn còn  biểu hiện TEL‐AML1 ở mức thấp từ 0,03% đến 0,28 % trong khi FISH và RT‐PCR đều âm tính. Đối với BN  ALL‐10, kết quả khảo sát bằng kỹ thuật RQ‐PCR cho thấy mức độ biểu hiện tổ hợp gen TEL‐AML1 trước điều  trị là 75,82%, giảm còn 0,29% (gần 3 log) sau điều trị tấn công và không còn sự hiện diện của tổ hợp gen TEL‐ AML1 sau điều trị tăng cường. BN ALL‐13 với mức độ biểu hiện TEL‐AML1 là 31,18% so với ABL, sau điều  trị xong giai đoạn tấn công, TLTBAT là 0,16% (giảm khoảng 2 log) và 0,10% sau đó 2 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ  TLTBAT bắt đầu tăng lên ở các lần gửi mẫu tiếp theo lần lượt là 0,36% và 2,42% cho thấy xuất hiện lại dòng tế  bào ác tính.  Kết  luận:  Bước đầu sử dụng  kỹ thuật RQ‐PCR đánh giá TLTBAT trong BCCDL‐B cho thấy có ý nghĩa  trong đánh giá lui bệnh và dự đoán nguy cơ tái phát trong quá trình điều trị cho BN có mang tổ hợp gen TEL‐ AML1.  Từ khóa: TEL‐AML1, tồn lưu tế bào ác tính, PCR định lượng.  ABSTRACT  DEVELOPMENT OF REAL‐TIME QUANTITATIVE PCR   TO MONITOR MINIMAL RESIDUAL DISEASE IN TEL/AML1 POSITIVE PATIENTS   AT BLOOD TRANSFUSION AND HEMATOLOGY HOSPITAL  Nguyen Thi Minh Yen, Phan Thi Xinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 184 ‐ 189  Object:  Using  Real  Time  Quatitative  ‐  PCR  (RQ‐PCR)  to  assess  minimal  residual  disease  (MRD)  in  patients with TEL/AML1 positive acute lymphoblastic leukemia (ALL).   Methods:  13  B‐ALL  patients  detected  TEL/AML1  positive  by  FISH  and  RT‐PCR  methods  before  chemotherapy are monitored MRD by RQ‐PCR with Taqman Probe.   Results:  Before chemotherapy, most of patients express TEL‐AML1 at high levels by RQ‐PCR, RT‐PCR  and FISH. At the end of the induction therapy, 5 in13 cases (38.46%) are still detected MRD at the very low  levels, from 0.03% to 0.28 %; while both FISH and RT‐PCR indicate the negative result. To patient ALL‐10, the  result of RQ‐PCR shows the TEL‐AML1 high positive level at diagnosis time, standing at 75.82%, declining  * Khoa Di Truyền Học Phân Tử ‐ Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP Hồ Chí Minh  ** Bộ môn Huyết Học ‐ Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: TS. BS. Phan Thị Xinh   ĐT: 093.2728.115   Email: phanthixinh@yahoo.com  184 Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học   Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013  Nghiên cứu Y học sharply to 0.29% (approximately 3 logs) after induction therapy and then vanishing after intensification therapy.  Patient ALL‐13 shows positive TEL‐AML1/ABL level at 31.18%; after induction therapy, MRD occupies 0.16%  (decrease over 2 logs) and declining to 0.10% after 2 months. However, there is a significant increasing in MRD  levels of the next 2 times, 0.36% and 2.42%, respectively.  Conclusions: The first step applying RQ‐PCR method to assess MRD in TEL‐AML1 positive ALL patients  shows the important value of monitoring remission and predicts a relapse risk in treatment duration.  Key words: TEL‐AML1, minimal residual disease, Real Time Quatitative PCR.   hành  khảo  sát  TLTBAT  trên  BN  có  biểu  hiện   ĐẶT VẤN ĐỀ  TEL/AML1 ở các giai đoạn sau điều trị, đặc biệt  Đánh giá tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) là  sau giai đoạn tấn công.  một  yếu  tố  dự  đoán  nguy  cơ  tái  phát  rất  quan  ĐỐI    TƯỢNG  –  PHƯƠNG    PHÁP    NGHIÊN   trọng ở bệnh nhân (BN) bệnh bạch cầu cấp dòng  CỨU  lympho (BCCDL)(1,6,9). Trong hầu hết các nghiên  cứu, tỷ lệ TLTBAT lớn hơn 0,01% là tỷ lệ thuận  Đối tượng  với  nguy  cơ  tái  phát(2).  Hiện  nay,  việc  đánh  giá  BN được  chẩn  đoán  BCCDL‐B  dựa  vào  tủy  TLTBAT  trong  BCCDL  có  thể  sử  dụng  các  kỹ  đồ  và  dấu  ấn  bề  mặt  tế  bào  tại  BVTMHH  từ  thuật  như  Flow  Cytometry  (FCM),  PCR  định  tháng 06/2010 đến tháng 03/2013. Các BN này có  lượng  (RQ‐PCR)  các  tái  sắp  xếp  gen  kết quả RT‐PCR dương tính với tổ hợp gen TEL‐ imunoglobullin  và  T‐cell  receptor  và  RQ‐PCR  AML1 trước khi bắt đầu điều trị và có gửi mẫu  các tổ hợp gen thường gặp(9,2,7). Trong đó, hai kỹ  theo dõi sau điều trị.   thuật đầu tiên có ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: