Danh mục

Bước đầu xác định địa giới hành chính một số phường thuộc nội vi Kinh Thành Huế (đầu thế kỷ XX-1945)

Số trang: 21      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.16 MB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chính thức được quy hoạch dưới thời vua Gia Long, Kinh Thành Huế được xem là biểu trưng quyền lực của vương triều Nguyễn. “Phường” trong Kinh Thành Huế trước thời điểm tu chỉnh dưới thời vua Duy Tân là dạng đơn vị hành chính đặc biệt, đây là nơi sinh hoạt, làm việc của các quan nha, đồn trú doanh trại quân đội, quan xưởng triều đình, dinh cơ tư thất quan lại và phủ đệ của các ông hoàng bà chúa. Thông qua một số nguồn tư liệu, bài viết góp phần xác định rõ ranh giới 10 phường nội thuộc Kinh Thành Huế dưới thời Nguyễn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bước đầu xác định địa giới hành chính một số phường thuộc nội vi Kinh Thành Huế (đầu thế kỷ XX-1945)Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 3 VĂN HÓA - LỊCH SỬ BƯỚC ĐẦU XÁC ĐỊNH ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH MỘT SỐ PHƯỜNG THUỘC NỘI VI KINH THÀNH HUẾ (ĐẦU THẾ KỶ XX - 1945) Đỗ Minh Điền* 1. Hệ thống các phường Nội thành trước thời điểm tu chỉnh dưới thờivua Duy Tân (1907 - 1916) Kinh Thành Huế được xem là trung tâm chính trị của cả nước, là biểu trưngquyền lực của vương triều nhà Nguyễn. Nếu như khu vực Hoàng Thành và Tử CấmThành được liệt vào hàng thâm nghiêm, cấm địa thì nội vi Kinh Thành được coi lànơi cấm mật, tuyệt nhiên bất khả xâm phạm. Chính vì thế, trong bộ Hoàng Việt luậtlệ (luật Gia Long) đã dành hẳn hơn 20 trang để nhấn mạnh sự tôn nghiêm của KinhThành, đồng thời quy định rất rõ các loại tội trạng, định hẳn chế tài xử phạt nghiêmkhắc đối với tất cả những ai tự tiện ra vào, xâm phạm địa giới Kinh Thành.(1) Được quy hoạch trên cơ sở đất đai của 8 làng trước đó, Kinh Thành Huế códiện tích mặt bằng khá rộng lớn. Ngoại trừ Hoàng Thành, kể từ thời vua Gia Long(1802 - 1820) trở đi, khu vực Kinh Thành là nơi sinh hoạt, làm việc của các quannha, đồn trú doanh trại quân đội, quan xưởng triều đình, dinh cơ tư thất của tầnglớp quan lại và phủ đệ của các ông hoàng bà chúa. Sách Khâm định Đại Nam hộiđiển sự lệ cho biết, “nội địa Kinh Thành từ trước đến nay vốn đã có phân chia đấtđể làm các phủ đệ và nhà ở cho quan chức và các ty”.(2) Trong hồi ức về Huế vàođầu thế kỷ XIX, Michel Đức Chaigneau cũng xác nhận tầng lớp dân chúng chỉđược sinh sống ở vùng ngoại vi, lân cận Kinh Thành,(3) ngoài những giai tầng nóitrên, tuyệt đối cấm các đối tượng còn lại xây dựng nhà cửa, ẩn cư ở nội vi KinhThành. Quy định này, được thực thi nghiêm túc cho đến gần cuối thời vua Tự Đức. Phường trong Nội thành(**) được nhắc đến sớm nhất là vào năm 1837 dướitriều vua Minh Mạng. Tổ chức phường vào giai đoạn này tồn tại với tư cách nhưnhững đơn vị hành chính đặc biệt, đó là kết quả của sự phân định hệ thống cácđồn canh, binh xá thuộc dinh vệ của các lực lượng quân đội. Có thể nói, hệ thốngphường thời kỳ này mang nặng tính chất quân sự, được bố trí theo hình thức phânô, cứ 10 phường trở thành 1 bảo 堡, chuyên trách tuần tra, canh giữ và kiểm soáttoàn bộ địa bàn Kinh Thành.* Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.** Khái niệm Nội thành hoặc Thành Nội là cách nói của người Huế dùng để chỉ toàn bộ khu vực Kinh Thành Huế. ĐMĐ.4 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 Theo ghi chép của sách Đại Nam thực lục và Đại Nam nhất thống chí, KinhThành có tất cả 95 phường.(4) Địa phận các phường tương ứng với đồn canh, dinhtrại đồn trú bảo vệ 24 pháo đài, bao quanh 4 phía vòng thành và khu vực Trấn BìnhĐài ở góc đông bắc Kinh Thành (Bảng 1). Bảng 1: Tên gọi 95 phường Nội thành dưới thời vua Minh Mạng (1820 - 1840) STT Đơn vị quản lý Tên phường Tổng Đồn Tả Dực (Từ Đài Nam Hiệu Trung, Ninh Mật, Đoan Hòa, Ngưng Hy, 1 Thắng đến điện Thanh Hòa) Trung Thuận, Nhân Hậu, Tích Thiện, Dưỡng 11 thuộc doanh Vũ (Võ) Lâm. Sinh, Phú Văn, Thận Cần, Nghĩa Tích. Đồn Hữu Dực (Từ Đài Nam Huệ Cát, Thuận Cát, Lý Cát, Trinh Cát, Tĩnh 2 Thắng đến điện Thanh Hòa) 8 Nhất, An Tĩnh, Nhuận Đức, Phước Tuy. thuộc doanh Vũ (Võ) Lâm. 2 vệ doanh Tiền Phong (Từ đài Đông Trường qua Đông Đông Phúc, Minh Thiện, Hóa Thành, Vĩnh An, 3 6 Gia, Đông Phụ đến nửa đài Thuận Bình và Nhân Tiệm. Đông Vĩnh). 5 vệ dinh Long Võ (Từ đài Nhân Cơ, Học Hải, Phong Doanh, Nhiêu Dụ, 4 Đông Vĩnh, Đông Bình, Định Chiêm Ân, Thường Dụ, Đa Lộc, Tuyền Thanh, 12 Bắc đến đài Bắc Hòa). Ân Thực, Hà Thanh, Ninh Viễn, Tứ Dịch. 5 vệ dinh Thần Cơ (Từ đài Tích Khánh, Túc Võ, Vệ Quốc, Nam Trị, Nam 5 Nam Thắng, Nam Hùng, 8 An, Nam Ninh, Nam Cường, Đại Hữu. Nam Minh đến đài Tây Trinh). Khánh Mỹ, Tư Trung, Địch Cần, Quả Nghị, 6 vệ dinh Hổ Uy (Từ đài Tây 6 Phục Lễ, An Mỹ, Bảo Hòa, Quy Hậu, Bảo Cư, 12 Trinh đến Tây An, Tây Dực). Vụ Bản, Ngưng Tích, Nam Thọ. Bảo Ninh, Đại Hanh, Sư Trinh, Tốn Vũ, Đôn 5 vệ ...

Tài liệu được xem nhiều: