Khi nói tính đặc trưng trong âm nhạc Hà Nội, không gì bằng nói đến kho tàng âm nhạc dân gian của vùng đó, để khi nét nhạc ấy vang lên thì người nghe nhận ra ngay, nó là ngôn ngữ âm nhạc của Hà Nội mà không cần phải kèm theo ca từ là những địa danh như: Hoàn Kiếm, Đông Đô nữa. Chẳng hạn như Dân ca Quan họ, ví dặm Nghệ Tĩnh, Ca Huế và các điệu Lý ở phía Nam v.v... Khi nét nhạc của mỗi vùng ấy vang lên thì người nghe nhận ra ngay...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ca trù - nhạc dân gian Hà Nội
Ca trù - nhạc dân gian Hà Nội
Khi nói tính đặc trưng trong âm nhạc Hà Nội, không gì bằng nói đến kho tàng âm nhạc dân gian
của vùng đó, để khi nét nhạc ấy vang lên thì người nghe nhận ra ngay, nó là ngôn ngữ âm nhạc
của Hà Nội mà không cần phải kèm theo ca từ là những địa danh như: Hoàn Kiếm, Đông Đô
nữa. Chẳng hạn như Dân ca Quan họ, ví dặm Nghệ Tĩnh, Ca Huế và các điệu Lý ở phía Nam
v.v... Khi nét nhạc của mỗi vùng ấy vang lên thì người nghe nhận ra ngay nó là âm nhạc của
vùng nào rồi. Vậy âm nhạc dân gian cổ truyền của Hà Nội là gì ? Đó là dòng nhạc Ca Trù
Ngày nay thành phố Huế có một kho tàng Ca Huế mang rõ nét bản sắc thanh lịch của người xứ
Huế. Đó là nhờ Huế được thừa hưởng nền âm nhạc Cung Đình Huế xưa để lại; trong đó có cả
múa Cung Đình nữa. Vậy lẽ nào Hà Nội ngày nay lại không được thừa hưởng nền âm nhạc
Cung Đình Thăng Long xưa - một nền âm nhạc được tạo dựng từ khi nhà Lý lấy vùng đất Đại La
này làm Đế Đô của nước Đại Việt. Và dòng nhạc ấy ngay từ thời đó đã phát triển rực rỡ, từng có
một ca sĩ tên là Đào Thị: Hát hay, múa giỏi được vua Lý Thái Tổ (1010 - 1028) ban thưởng nên
dòng nhạc ấy về sau còn có tên là hát Ả Đào (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư tập 1 kỷ nhà Lý).
Từ đó, theo dòng thời gian từng thế hệ ca công, sáng tác, vũ đạo được tuyển chọn trong những
người tài hoa của mọi miền đất nước đưa về phục vụ trong Cung Đình. Để rồi ngoài giờ phục
vụ trong Cung Cấm hoặc khi về hưu họ lại lập ra các Phường, Hội, Nhóm ca nhạc thính phòng
khắp ngoài 36 phố phường. Kẻ Chợ, hoặc lập thành những Thái ấp quanh Hà Nội mà ngày
nay những nơi đó còn có những nhà thờ các vị Tổ của lối hát Ca Trù, như ở vùng Nghĩa Đô - Từ
Liêm và Vùng Lỗ Khê Đông Anh. Đó là chưa kể đến các tao nhân mặc khách là kẻ sĩ của cả
vùng Bắc Kỳ thường hay lui tới đất Hà thành góp phần làm cho dòng nhạc Ca Trù càng thêm
uyên thâm kiêu sa, để rồi dòng nhạc ấy trở thành tiếng nói tâm hồn, tình cảm in sâu vào tiềm
thức của từng thế hệ người đất Tràng An. Nhờ đó từ khi kinh đô dời vào Phú Xuân từ năm 1802
- nhưng dòng nhạc Ca Trù vẫn sống với người Thăng Long như Ca Huế của người Huế ngày
nay vậy.
Tuy nhiên Ca Trù là tinh hoa của cả nước góp lại và nó có cội nguồn từ lối hát Cửa Đền - một lối
hát tín ngưỡng của các thầy cúng (phù thủy, thầy mo) và được ra đời từ thuở mới có dấu hiệu tín
ngưỡng, mà dạng tín ngưỡng tang lễ người thân khi qua đời là có đầu tiên (đó là kiểu hát khóc nỉ
non, kể lại công trạng của người đã khuất và nỗi tiếc thương của con cháu, để cầu chúc cho
hương hồn người thân nơi chín suối an giấc ngàn thu. Tín ngưỡng thoạt đầu là một hiện tượng
rất cụ thể và đơn giản như vậy, dần về sau mới thành một hệ thống tư tưởng). Với lối hát Cửa
Đền đầu tiên này của người Kinh, thì nhạc cụ là bộ gõ, chất liệu bằng tre già, dùng mặt cật để
gõ vào nhau cho trong tiếng: Gồm một khổ tre dài, chừng 1 thước ta, to khoảng bằng 3 ngón tay
và hai thanh tre nhỏ.
Người hát mặc áo dài tròn không xẻ tà, trùm xuống tận gót ngồi quặt chân về một bên, hai tay
cầm hai thanh tre nhỏ gõ lên khổ tre lớn kia đặt ngang trước mặt, theo nhịp hát. (Kiểu dáng này
ngày nay vẫn còn thấy trong hát Then của người Thái. Phải chăng nó cũng đồng dạng trong lối
nữ hát Cửa Đền của người Kinh). Về sau chế tạo thêm được cây đàn Đáy thì âm thanh của nó
cũng có lúc đùng đục, lúc lách cách như tiếng thanh tre gõ vào nhau. Ở trong hát tín ngưỡng của
người Thái Tây Bắc đến thời đã sử dụng được đồ đồng thì bộ gõ bằng tre phải chăng được thay
bằng chùm quả nhạc về sau mới có thêm các nhạc cụ như Đàn Tính, hay chiếc sáo Pilao đệm
thêm theo nhịp hát cúng.
Lối hát cúng Cửa Đền này ngay từ đầu đã được các trưởng tộc dùng vào việc cầu đảo Trời Đất,
Tổ Tiên. Lấy âm nhạc làm tín hiệu truyền lời thỉnh cầu của bộ tộc đến đấng Thần linh và nhận
lại ý phán truyền của các đấng Thiêng linh ấy; đến thời kỳ lập quốc gia, các bậc vua chúa cũng
lấy dòng nhạc Cửa Đền để hát cúng khi cầu đảo Trời Đất cà Tổ Tiên nơi Thái Miếu. Ở nước ta
từ thời Tiền Lê về trước không có sử sách nào ghi chép về vấn đề này nhưng từ thời nhà Lý về
sau, có ghi chép đầy đủ với những quy định trong việc tổ chức, biên chế rất nghiêm ngặt.
Nhạc Cung Đình được lập thành hai ban: Ban nhã nhạc dùng khi tế tự Giao Miếu, và ban nữ
nhạc dùng vào dịp khánh tiết, tiếp đãi các sứ thần ngoại quốc hay yến tiệc. Dùng nhã nhạc vào
việc tế lễ tự, tỏ ra nghi lễ trang nghiêm trọng đại. Dùng nữ nhạc vào việc vui mừng, tỏ ra thiên
hạ thái bình ấm no.
Nhưng từ khi Thăng Long không còn là kinh đô nữa thì dòng nhạc Ca Trù ngoài phần dùng làm
hát cúng, mang tính chất linh thiêng thần bí, số khác vẫn dùng vào lối thù tạc của những bậc
hào hoa kẻ sĩ trong các phường, hội trên đất Cố đô. Đồng thời dòng nhạc Ca Trù này cũng được
những người đào, kép sống ở đất Hà Thành mang về quê mình tạo ra một dị bản mới để một vài
đời sau có nơi đã tự coi Ca Trù được sinh ra ở quê mình. Chẳng hạn như ở Hà Tĩnh cháu chắt
của cụ Nguyễn Công Trứ nói: Cây đàn Đáy là do Đinh L ...