Danh mục

Các aminoglycosid

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 124.00 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Kháng sinh đầu tiên của nhóm aminoglycosid là streptomycin được tách chiết nǎm 1944 và ngay sau đó người ta đã thấy hiệu quả của thuốc trong điều trị bệnh lao. Nǎm 1949, người ta tách được neomycin, tiếp theo là kanamycin nǎm 1957. Nǎm 1959, một aminoglycosid khác ít được biết tới là paronomycin được triển khai. Ngày nay, bốn aminoglycosid này ít được dùng do tính khả dụng của gentamycin (1963), tobramycin (1975) và amikacin (1976). Gentamicin được sử dụng rộng rãi nhất vì thuốc đã có ở dạng thuốc gốc và do đó rẻ hơn nhiều...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các aminoglycosidCác aminoglycosidLịch sử:Kháng sinh đầu tiên của nhóm aminoglycosid là streptomycin được táchchiết nǎm 1944 và ngay sau đó người ta đã thấy hiệu quả của thuốc trongđiều trị bệnh lao. Nǎm 1949, người ta tách được neomycin, tiếp theo làkanamycin nǎm 1957. Nǎm 1959, một aminoglycosid khác ít được biết tới làparonomycin được triển khai. Ngày nay, bốn aminoglycosid này ít đượcdùng do tính khả dụng của gentamycin (1963), tobramycin (1975) vàamikacin (1976). Gentamicin được sử dụng rộng rãi nhất vì thuốc đã có ởdạng thuốc gốc và do đó rẻ hơn nhiều so với tobramycin hoặc amikacin.Việc sử dụng streptomycin và neomycin giảm còn do nguy cơ gây độc nặngcho tai, mặc dù các chất mới hơn cũng biểu hiện khả nǎng gây độc này.Neomycin chỉ được dùng đường uống trong điều trị bệnh não gan vì độc tínhquá cao khi dùng ngoài đường tiêu hóa hoặc rửa tại chỗ. Paronomycin hiệnnay chủ yếu được dùng như một thuốc chống ký sinh trùng đường ruột trongđiều trị bệnh amip, giardia, cestodia, leishmania da cũng như cryptosporidioở bệnh nhân AIDS.Trong những nǎm 1970 và 1980, hàng chục kháng sinh cephalosporin đã rađời, và nhiều người tin rằng việc sử dụng aminoglycosid sẽ trở nên lỗi thời.Tuy nhiên, việc một số vi khuẩn gram âm trở nên kháng với cephalosporinđang một lần nữa khẳng định sự hữu ích của các aminoglycosid và làm sốnglại mối quan tâm tới nhóm thuốc này. Việc sử dụng ở liều cao hơn cáchquãng dài hơn có thể đồng thời làm tǎng hiệu quả và giảm độc tính.Cơ chế tác dụng:Mặc dù đã nghiên cứu nhiều nǎm, song vẫn chưa rõ các aminoglycosid làmchết tế bào vi khuẩn như thế nào. Người ta biết rằng các aminoglycosid gắnkết vững chắc với một trong hai vị trí gắn aminoglycosid trên tiểu phân 30Scủa ribosom, kết quả là thuốc ức chế tổng hợp protein của vi khuẩn. Tuynhiên sự ức chế này không đủ để giải thích cho tác dụng làm chết vi khuẩncủa các aminoglycosid, vì các kháng sinh khác không phải aminoglycosidcũng ức chế tổng hợp protein lại chỉ có tác dụng k ìm khuẩn. Một khía cạnhtối quan trọng đối với khả nǎng diệt khuẩn của aminoglycosid là cần đạtđược nồng độ nội bào vượt quá nồng độ ngoại bào. Các vi khuẩn kị khíkhông nhạy cảm với aminoglycosid một phần là do chúng không có cơ chếvận chuyển tích cực để hấp thu aminoglycosid.Các aminoglycosid biểu hiện khả nǎng diệt phụ thuộc nồng độ và hiệuứng sau kháng sinh (PAE). Khả nǎng diệt phụ thuộc nồng độ mô tảnguyên lý hiệu quả diệt khuẩn tǎng khi nồng độ tǎng. PAE biểu hiện khảnǎng ức chế sự phát triển vi khuẩn kéo dài nhiều giờ sau khi không còn pháthiện được nồng độ aminoglycosid. Cả hai hiện tượng này có thể được lợidụng trong những phác đồ dùng liều cao cách quãng dài.Các đặc điểm phân biệt/Phản ứng có hại:Các aminoglycosid có hoạt động và phản ứng có hại tương tự nhau. Haiphản ứng có hại nổi tiếng là gây độc cho tai và gây độc cho thận. Người tacho rằng một số aminoglycosid, như neomycin và streptomycin gây độc chotai nhiều hơn các thuốc khác, mặc dù chưa bao giờ có mối liên quan rõ rànggiữa nồng độ aminoglycosid huyết thanh và tiến triển của nhiễm độc ở tai.Mặc dù người ta cho rằng độc tính đối với tai của neomycin chủ yếu là ở ốctai, còn streptomycin gây độc tiền đình, tất cả các aminoglycosid đều có khảnǎng gây những dạng nhiễm độc này. Nhiễm độc tai diễn ra sau khi sử dụngkéo dài và không thể hồi phục.Nhiễm độc thận là một phản ứng có hại khác đã được mô tả kỹ với liệu phápaminoglycosid. Aminoglycosid được hấp thu bởi hiện tượng thẩm bào trongcác tế bào lót ống lượn gần, ở đây thuốc tập trung trong các lysosom. V ìkhông có cơ chế đào thải phức hợp aminoglycosid-lysosom nội bào, tế bàotrương lên và vỡ ra. Hình như có mối liên quan chặt chẽ giữa nồng độaminoglycosid huyết thanh với sự xuất hiện nhiễm độc thận hơn là vớinhiễm độc tai. Nồng độ thuốc tǎng cao trong thời gian dài làm nặng thêmđộc tính thận của aminoglycosid. Sự hấp thu thuốc của tế bào ống thận khitruyền aminoglycosid liên tục 24 giờ cao hơn so với dùng liều tương tự tiêmtruyền trong 30 phút. Ngoài ra, hiệu quả có vẻ không bị ảnh hưởng khi dùngaminoglycosid liều cao cách quãng dài.Do những khác biệt lâm sàng giữacác aminoglycosid là rất ít, có lẽ chi phí vẫn là yếu tố có ý nghĩa trong việcchọn lựa thuốc. ...

Tài liệu được xem nhiều: