Danh mục

CÁC BỆNH TÂM CĂN, CÁC RỐI LOẠN LIÊN QUAN ĐẾN STRESS VÀ CÁC RỐI LOẠN DẠNG CƠ THỂ (F40-F49) - 1

Số trang: 15      Loại file: pdf      Dung lượng: 171.01 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (15 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các rối loạn bệnh tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ thể được xếp chung vào một nhóm lớn vì lý do lịch sử đã kết hợp chúng vào quan niệm bệnh tâm căn (neurosis) và có sự kết hợp với một tỷ lệ quan trọng (tuy chưa rõ ràng) các rối loạn này với nguyên nhân tâm lý.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CÁC BỆNH TÂM CĂN, CÁC RỐI LOẠN LIÊN QUAN ĐẾN STRESS VÀ CÁC RỐI LOẠN DẠNG CƠ THỂ (F40-F49) - 1 CÁC BỆNH TÂM CĂN, CÁC RỐI LOẠN LIÊN QUAN ĐẾN STRESS VÀ CÁC RỐI LOẠN DẠNG CƠ THỂ (F40-F49) 1 I. KHÁI NIỆM Các rối loạn bệnh tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ thể đượcxếp chung vào một nhóm lớn vì lý do lịch sử đã kết hợp chúng vào quan niệmbệnh tâm căn (neurosis) và có sự kết hợp với một tỷ lệ quan trọng (tuy ch ưa rõràng) các rối loạn này với nguyên nhân tâm lý. Sự hỗn hợp các triệu chứng là phổ biến (trầm cảm cùng tồn tại với lo âu làthường gặp nhất), đặc biệt các thể nhẹ hơn của các rối loạn này hay gặp trongchăm sóc sức khỏe ban đầu. Tuy nhiên cần phải cố gắng để xác định hội chứngnào là hội chứng ưu thế. - Do bao gồm nhiều bệnh và có nhiều kết quả điều tra khác nhau nên chúngtôi đưa ra một số tỷ lệ bệnh này (trên dân sô)ú để tham khảo: Đà Nẵng là 3%, HảiPhòng 4,3%, TPHCM 3%, trung bình t ừ 4-5%. Các nước phát triển có tỷ lệ caohơn, theo Hagnell là 7,9% nam và 16,5% đ ối với nữ. Theo Petoracốp, tỷ lệ là5,82%. Mỹ riêng Rl lo âu chiếm 7,5% dân số, 10-15% bệnh nhân ngoại trú và10% của bệnh nhân nội trú. Trong sức khỏe cộng đồng 25% cá thể có một thờiđiểm nào đó bị rối loạn lo âu. Trong nhóm rối loạn này, lo âu xuất hiện hoặc duy nhất, hoặc chủ yếu donhững hoàn cảnh hay những đối tượng nào đó (bên ngoài chủ thể) và thực tếkhông nguy hiểm. Kết quả đặc trưng là bệnh nhân né tránh các hoàn cảnh và đốitượng đó hoặc là chịu đựng với sự khiếp sợ. Lo âu ám ảnh sợ không phân biệtđược với các loại lo âu khác về mặt chủ quan, sinh lý hay tác phong, và mức độtrầm trọng của nó có thể thay đổi đi từ sự khó ở nhẹ dến sự khiếp sợ. Sự lo lắngcủa chủ thể có thể tập trung vào các triệu chứng cá nhân như đánh trống ngực hoặccảm giác ngất xỉu và thường hay kết hợp với các hiện t ượng thứ phát như sợ chết,sợ mất tự chủ hay sợ điên. Lo âu không nhẹ đi khi biết rằng người khác không coihoàn cảnh đó là nguy hiểm hoặc đe dọa. -Lo âu ám ảnh sợ thường kết hợp với trầm cảm. Lo âu ám ảnh sợ có tr ướchầu như nặng lên khi có một giai đoạn trầm cảm xen vào. Một giai đoạn trầm cảmkèm theo lo âu ám ảnh sợ nhất thời và một số ám ảnh sợ đặc biệt ám ảnh sợkhoảng trống thường có khí sắc trầm . -Hấu hết các ám ảnh sợ (ngoài ám ảnh sợ xã hội) thường gặp ở nữ nhiều hơnở nam. - Lo âu là một cảm giác lo sợ lan tỏa hết sức khó chịu nhưng thường mơ hồ,kèm theo một hay nhiều triệu chứng cơ thể như cảm giác trống rỗng ở thượng vị,siết chặt ở ngực, hồi hộp, vã mồ hôi, đau đầu, buồn tiểu tiện và bực tức bất an. - Lo âu là một tín hiệu báo động, nó báo trước một sự nguy hiểm sắp xảy ra,cho phép con người sử dụng mọi biện pháp để đương đầu với sự đe dọa. - Sợ cũng là một tín hiệu báo động tương tự nhưng khác với lo âu: sợ là sựđáp ứng với một đe dọa đã được biết rõ ràng từ bên ngoài hay không có nguồn gốcxung đột, còn lo âu là sự đáp ứng với một đe dọa không được biết rõ, từ bên trong,mơ hồ hay có nguồn gốc xung đột. - Cần phân biệt giữa lo âu bình thường và lo âu bệnh lý. Người bị loâu bình thường có thể được điều trị bằng cách trấn an hoặc liệu pháp tâm lý đơngiản nếu cần. Lo âu bệnh lý là lo âu quá mức hoặc dai dẳng không t ương đươngvới sự đe dọa được cảm thấy, ảnh hưởng đến hoạt động của người bệnh, khôngmất đi với sự trấn an và có thể kèm theo những ý nghĩ hay hành động có vẻ quámức hay vô lý. Do đó, khi đánh giá một bệnh nhân có các biểu hiện lo âu cần phải xác địnhây là lo âu bình thường hay lo âu bệnh lý, nếu là lo âu bệnh lý thi đây là lo âunguyên phát hoặc lo âu thứ phát (do một bệnh tâm thần hoặc bệnh c ơ thể khác). Hiện nay, dựa vào các biểu hiện lâm sàng khách quan, các nghiên cứu vềhiện tượng học, di truyền học, các yếu tố sinh học lẫn sự đáp ứng chuy ên biệt vớicác phương pháp điều trị khác nhau, người ta chia các rối loạn lo âu ám ảnh sợthành các loại chính như sau: Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ: -Ám ảnh sợ khoảng rộng có hoặc không có rối loạn hoảng sợ. -Ám ảnh sợ xã hội. -Ám ảnh sợ chuyên biệt. Các rối loạn lo âu khác: -Rối loạn hoảng sợ. -Rối loạn lo âu toàn thể. Rối loạn ám ảnh cưỡng bức II. NHỮNG RỐI LOẠN ÁM ẢNH SỢ (F.40) Trong nhóm các rối loạn này, lo âu xuất hiện hoặc duy nhất , hoặc chủ yếudo những hoàn cảnh hay những đối tượng nào đó ( bên ngoài chủ thể) và thực tếkhông nguy hiểm. Kết quả đặc trưng là bệnh nhân né tránh các hoàn cảnh hoặc đốitượng đó hoặc chiệu đựng với sự khiếp sợ. Lo âu ám ảnh sợ không phân biệt đượcvới các loại lo âu khác về mặt chủ quan, sinh lý hay tác phong, và mức độ trầmtrọng của nó có thể thay đổi đi từ sự khó ở đến sự khiếp sợ. Sự lo lắng của chủ thểcó thể tập trung vào các triệu chứng cá n ...

Tài liệu được xem nhiều: