Danh mục

Các biểu hiện thường gặp của bệnh tim mạch

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 111.04 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việc phát hiện sớm bệnh tim mạch có vai trò hết sức quan trọng giúp ngăn ngừa hoặc giảm bớt các tai biến chết người của nó. Ðồng thời còn đem lại cho chúng ta cơ hội sớm được tiếp cận các phương pháp điều trị mới để có thể đạt kết quả chữa bệnh tốt nhất. Dưới đây là các biểu hiện cần được chú ý. Khó thở Khó thở do bệnh tim mạch thường xuất hiện khi khả năng bơm máu của quả tim bị suy yếu hoặc có sự cản trở trên đường dòng máu chảy từ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các biểu hiện thường gặp của bệnh tim mạch Các biểu hiện thường gặp của bệnh tim mạchViệc phát hiện sớm bệnh tim mạch có vai trò hết sức quan trọng giúp ngănngừa hoặc giảm bớt các tai biến chết người của nó. Ðồng thời còn đem lạicho chúng ta cơ hội sớm được tiếp cận các phương pháp điều trị mới để cóthể đạt kết quả chữa bệnh tốt nhất. Dưới đây là các biểu hiện cần được chúý.Khó thởKhó thở do bệnh tim mạch thường xuất hiện khi khả năng bơm máu của quảtim bị suy yếu hoặc có sự cản trở trên đường dòng máu chảy từ quả tim vàocác mạch máu. Khi sức bơm máu của quả tim giảm xuống sẽ gây ra khó thởdo ứ trệ máu và dịch, điều này dẫn tới sự gia tăng áp lực máu ở phổi gây ròrỉ dịch vào các phế nang (túi khí nhỏ ở phổi).Khó thở đột ngột về đêm là cơn khó thở xuất hiện khoảng vài giờ sau khibạn đi ngủ, là hậu quả của lượng dịch tích tụ ở hai chân chúng ta ban ngàythấm trở lại dòng máu khi bạn nghỉ ngơi vào ban đêm. Hiện tượng này làmtăng gánh nặng cho quả tim và tăng áp lực máu ở phổi gây cơn khó thở.Ðau ngựcNhồi máu cơ tim hoặc cơn đau thắt ngực không ổn định xảy ra khi một trongcác nhánh của động mạch vành bị lấp tắc hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn.Triệu chứng đau ngực trong nhồi máu cơ tim cũng có tính chất giống nhưcơn đau thắt ngực nhưng kéo dài hơn (>20 phút) và không thuyên giảm khita nghỉ ngơi và khi bệnh nhân dùng một số thuốc giãn mạch. Ngoại trừ mộtsố trường hợp nhồi máu cơ tim “thầm lặng” tức không gây đau ngực, nhìnchung cơn đau ngực trong nhồi máu cơ tim thường dữ dội và hay kèm theocảm giác buồn nôn, ớn lạnh, vã mồ hôi và trạng thái hết sức lo âu. Đây làmột cấp cứu nên cần phải được quan tâm và có hành động kịp thời.Viêm màng ngoài tim là một nguyên nhân nữa gây đau ngực. Quả tim cũngnhư các lá phổi được bao bọc bởi một lớp màng kép, bình thường mỏng nhưgiấy bóng kính. Viêm màng ngoài tim là khi hai lá màng này bị viêm, dàylên và cọ xát vào nhau khi quả tim đập gây đau ngực. Viêm màng ngoài timthường do virus, đặc biệt là nhóm virus có tên Coxsackie.Đau ngực do tim có thể do một số nguyên nhân khác như là: Bệnh lý van timđặc biệt là hẹp hoặc hở van động mạch chủ.Đau ngực cơ năng hay đau ngực do căn nguyên tâm lý đôi khi rất khó xácđịnh vì thực tế một số trường hợp có thêm bệnh lý thực tổn đi kèm. Mộtnghiên cứu được tiến hành trên những phụ nữ tuổi trung niên có biểu hiệnđau ngực nhưng không hẹp động mạch vành cho thấy: sự mất thăng bằng vềnội tiết là một trong số các nguyên nhân gây ra cơn đau.Ðánh trống ngựcNhịp tim nhanh và không đều, còn gọi là rối loạn nhịp, có thể xảy ra ở ngườikhoẻ mạnh nhưng cũng có thể là một biểu hiện gợi ý bệnh tim mạch. Nhịptim rất nhanh xuất hiện không liên quan đến gắng sức thường do các rối loạngọi là tim nhanh kịch phát trên thất hay tim nhanh nhĩ kịch phát, các thuậtngữ y học này để chỉ nhịp tim nhanh có căn nguyên từ các buồng phía trêncủa quả tim, gọi là tâm nhĩ. Lúc này có thể bạn vẫn cảm thấy bình thườngngoại trừ cảm giác đánh trống ngực. Các cơn tim nhanh trên thất thườngkhông kéo dài và nếu thấy chúng kéo dài nhiều phút thì bạn cần đi gặp bácsĩ.Nguy hiểm nhất là hiện tượng gọi là tim nhanh thất, thường gặp ở nhữngngười có bệnh tim mạch thực sự. Tim đập nhanh bắt nguồn từ các buồng timphía dưới, có chức năng bơm máu gọi là các tâm thất. Người bị tim nhanhthất thường rất mệt và khó thở do lượng máu quả tim bơm đi nuôi cơ thể bịsút giảm đáng kể.Ngất xỉuBệnh tim mạch thường gây ngất xỉu nhất là các rối loạn về nhịp như nghẽnnhĩ thất (tim đập đều đặn là do những tín hiệu thần kinh được truyền nhịpnhàng từ tâm nhĩ xuống tâm thất, nghẽn nhĩ thất là khi sự dẫn truyền này bịgián đoạn). Lúc đó tim sẽ đập rất chậm, không đủ khả năng đưa máu vàdưỡng khí lên nuôi bộ não. Ngược lại, vì một lý do nào đó khi tim đập quánhanh (nhiều hơn 150 lần trong một phút), khả năng bơm máu lên não củatim bị giảm sút cũng có thể gây ngất.Nếu chỉ là ngất (mất ý thức) thì hãy để ngay bệnh nhân nằm nơi thoáng, nớirộng quần áo, có thể nhấc bổng 2 chân bệnh nhân lên để tăng cường máu vềtim và não cần theo dõi để có thể cấp cứu hồi sinh tim phổi ngay nếu bệnhnhân chuyển sang tình trạng ngừng tuần hoàn.PhùVề bản chất hiện tượng phù là do nước thoát quản khỏi lòng mạch để ứ đọngở khoảng gian bào gây phù. Do vậy thực tế thường phát hiện được phù ở cácvị trí trên nền xương cứng hoặc nơi mô lỏng lẻo. Trong các bệnh tim mạch,vì lý do nào đó mà tuần hoàn ở hệ tĩnh mạch bị ứ trệ (thường do suy tim bênphải) làm tăng áp lực trong lòng tĩnh mạch gây hiện tượng nước trong tĩnhmạch ra ngoài gian bào ứ đọng gây phù. Một số trường hợp tắc tĩnh mạchcũng gây phù, nhưng ở đây là phù cục bộ tương ứng trước chỗ tắc tĩnhmạch.Tím táiTím trung ương khi máu tĩnh mạch và máu động mạch bị trộn lẫn với nhaungay trong quả tim do một luồng thông bẩm sinh nằm giữa tim trái và timphải hoặc do khuyết tật di truyền tạo nên một buồng tim chung (máu độngmạch có màu đỏ tươi do giàu ôxy còn m ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: