Danh mục

CÁC ĐÔ THỊ LỚN CỦA NƯỚC TA VỀ HỒI HAI THẾ LỶ 17 - 18

Số trang: 8      Loại file: doc      Dung lượng: 87.50 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các nhà buôn và các giáo sĩ Tây phương vào nước ta trước hết đều để chân đến các kinh đô, các thị trấn và hải cảng lớn ở phía Bắc hoặc ở phía Nam. Các giáo sĩ lưu lại để truyền giáo, và các nhà buôn ngoại quốc mở cửa hàng cũng đều ở các đô thị lớn. Cho đến các nhà ngoại giao, các sứ thần đi giao thiệp về các việc trọng đại, cũng phải đến các kinh đô, nơi vua chúa lập triều đình và đặt các cơ quan chính trị và hành chính. Vì thế...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CÁC ĐÔ THỊ LỚN CỦA NƯỚC TA VỀ HỒI HAI THẾ LỶ 17 - 18 CÁC ĐÔ THỊ LỚN CỦA NƯỚC TA VỀ HỒI HAI THẾ LỶ 17 - 18Các nhà buôn và các giáo sĩ Tây phương vào nước ta trước hết đều để chân đến các kinh đô,các thị trấn và hải cảng lớn ở phía Bắc hoặc ở phía Nam. Các giáo sĩ lưu lại để truyền giáo, vàcác nhà buôn ngoại quốc mở cửa hàng cũng đều ở các đô thị lớn. Cho đến các nhà ngoại giao,các sứ thần đi giao thiệp về các việc trọng đại, cũng phải đến các kinh đô, nơi vua chúa lậptriều đình và đặt các cơ quan chính trị và hành chính. Vì thế mà các thị trấn lớn được ngườingoại quốc để ý và nói đến rất nhiều. Các di tích của họ để lại ở xứ ta cũng đều tụ tập ở cácnơi đó cả. Nay mỗi khi ta đọc lại những tập ký sự của các nhà đi bể và các giáo sĩ đến nước tatrước tiên, không những ta có thể biết được nhiều điều mà các chính sử không hề chép, mà lạicòn được trông thấy những cảnh tượng lạ mắt về các đô thành cổ, và về cách sinh hoạt củaông cha ta thưở trước. Những cuốn ký sự đó thực là những tài liệu quý giá cho cuốn “ViệtNam xã hội và Văn hóa sử” sau này.Chúng tôi muốn đem phô diễn trước mắt các độc giả những cảnh Hà Nội, Phố Hiến, Huế,Cửa Hàn, Faifo, Quy Nhơn cổ theo các quan sát của các nhà buôn và giáo sĩ ngoại quốc, là vìcác nơi đó rất có quan hệ đến lịch sử nước ta và lịch sử việc truyền đạo Thiên Chúa ở xứ này.Trong cuốn “Description du royaume de Tonkin” của Samuel Baron do H.Deseille dịch tiếngAnh ra và xuất bản ở nhà in Viễn Đông Hà Nội, có tả rõ về kinh đô Kẻ Chợ của xứ Bắc kỳhồi đó, Samuel Baron là một nhà buôn Anh do Công ty Ấn Độ ở Bantam phái sang mở hiệubuôn ở Hà Nội cùng phố Hiến vào năm 1681 đã viết:“Thành phố Ca-cho (Kẻ Chợ, Hà Nội) là thủ đô xứ Bắc kỳ. Thành phố đó ở vào bắc vỹ tuyến21 độ và cách bể độ 40 dặm. Về diện tích thành phố đó có thể so sánh với nhiều thị trấn khácở Á châu: còn về dân số thì thành phố đó còn đông hơn nhiều nơi, nhất là trong hai ngày mồngmột và rằm mỗi tháng là các ngày phiên chợ, dân các làng lân cận đem các hàng hóa kéo về đóđông không thể tưởng tượng được. Có nhiều phố rộng rãi, quang đãng vào những ngày đó thìđặc những người, đến nỗi lách đường đi qua đám đông được độ trăm bước trong nửa giờ làmột sự rất may mắn. Tất cả các đồ đạc bán trong thành phố, mỗi thứ bán ở một phố riêng, vàcác phố đó còn chia làm một hai hoặc nhiều khu là nơi chỉ người ở trong khu mới có thể mởcửa hàng được, chẳng khác gì các hội và các nghiệp đoàn trong các thành phố Âu châu vậy.Triều đình của vua, của các ông Hoàng, và của đại tướng và các tòa án tối cao, đều lập ở đây.Tôi chỉ có thể nói các triều đình đó chiếm những khu đất rộng, các dinh thự bề ngoài trông rấtxoàng vì đều xây bằng gỗ. Các nhà ở khác đều làm bằng tre và những tấm phên đan rất vụng.Rất ít nhà cửa xây bằng gạch, trừ các cửa hàng của người ngoại quốc là những ngôi nhà rựcrỡ hơn hết.Khi đứng trước ba lớp thành và lâu đài cổ, người ta phải lấy làm ngạc nhiên, những di tích cònlại tỏ ra rằng thành ấy ây vững vàng có những cửa lớn và đẹp lát bằng một thứ cẩm thạch; lâuđài cổ chu vi độ 6 hoặc 7 dặm, cứ xem các cửa ngõ, sân và các gian nhà còn lại cũng đủ biếtlâu đài đó trước kia rất đẹp đẽ, lộng lẫy. Trong khu thành đó, lại có những trại của một quânđội lớn lúc nào cũng dự bị sẵn sàng, và kho chứa binh khí của nhà vua ở trên bờ sông gần mộtbãi cát mới bồi”.Các người Âu châu đã qua thăm Kẻ Chợ về hồi thế kỷ 17, cũng có người để ý đến các thànhtrì và lâu đài cổ mà Baron đã nói trên nầy; nhưng không mấy ai tìm thấy di tích. Ngay đến cácsách địa dư cổ của các tiền triều cũng nói về thành trì và cung điện ở Hà Nội tức Đông Kinh,Đông Đô tức Long Biên và Thăng Long thưở xưa, nhưng không được rõ ràng. Cuốn “Hà Nộiđịa dư chí” có chép rằng: “Năm đầu niên hiệu Thuận Thiên nhà Lý (1010) đã định đô, xây cungđiện và hoàng thành. Thành có bốn cửa, cửa Đông là cửa Tường Phù, cửa Tây là cửa DiệuĐức, cửa Nam là cửa Đại Hưng, cửa Bắc là cửa Quảng Phúc. Phía ngoài có xây thành bằngđất. Niên hiệu Thiên Thành thứ hai (1029) xây thành ở chung quanh gọi là Phương thành; đếnđầu đời nhà Trần, nhân đó lại xây nội thành gọi là Long phượng thành. Đến đầu niên hiệuQuang Thuận nhà Lê (1460) xây Đại la thành và theo lệ nhà Lý, nhà Trần, xây Phương thànhrộng tám dặm”.Những thành trì, cung điện ở Thăng Long đó, hồi thế kỷ 17 cũng chỉ còn lại một ít di tích nhưBaron đã nói trên kia. Các di tích đó sau mấy thế kỷ nữa đã cùng với thời gian tiêu tán, nên đếncuối thế kỷ 19, bác sĩ Hocquard dự vào cuộc chinh phục ở Bắc kỳ chỉ còn trông thấy một cáicổng đổ nát là tất cả di tích về thành trì và lâu đài từ đời Lý để lại.Bác sĩ đã viết trong cuốn “Campagne au Tonkin”: “Chúng tôi cưỡi ngựa đi nước đại tiến vàomột con đê cao hai bên bờ đầy những xương rồng, con đê ấy tiếp với con đường đi Sơn Tây.Đường này chạy giữa đồng ruộng đưa ta đến thẳng dưới chân thành. Về phía này người ta đivào thành Hà Nội qua một cái cổng đổ nát, hai bên có hai mảnh tường đã phá quá nửa, đó là ...

Tài liệu được xem nhiều: