Danh mục

Các giai đoạn trong lịch sử tiếng Việt 1

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 130.41 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

1. Giai đoạn phát triển Mon-Khmer 1.1. Tính chất và thời gian tương đối Thực ra, trong quan niệm của chúng tôi đây không phải là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử phát triển riêng của tiếng Việt. Nhưng vì tiếng Việt là một ngôn ngữ có nguồn gốc Nam Á, nhánh Mon-Khmer nên để tiện cho việc theo dõi lịch sử của nó, chúng tôi tạm tách ra một giai đoạn cụ thể được gọi là giai đoạn Mon-Khmer. Tên gọi của giai đoạn lịch sử nói trên, như vậy, có nghĩa là vào thời kì này...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các giai đoạn trong lịch sử tiếng Việt 1 Các giai đoạn trong lịch sử tiếng Việt1. Giai đoạn phát triển Mon-Khmer1.1. Tính chất và thời gian tương đốiThực ra, trong quan niệm của chúng tôi đây không phải là giai đoạn đầu tiên tronglịch sử phát triển riêng của tiếng Việt. Nhưng vì tiếng Việt là một ngôn ngữ cónguồn gốc Nam Á, nhánh Mon-Khmer nên để tiện cho việc theo dõi lịch sử của nó,chúng tôi tạm tách ra một giai đoạn cụ thể được gọi là giai đoạn Mon-Khmer. Têngọi của giai đoạn lịch sử nói trên, như vậy, có nghĩa là vào thời kì này tiếng Việtcùng với các ngôn ngữ khác của nhánh Mon-Khmer đang là một khối chung, thốngnhất. Sự khác biệt vào lúc này chỉ là sự khác biệt của những bộ phận có tínhphương ngữ trong nội bộ nhánh Mon-Khmer để về sau chúng tách ra thành cácnhóm ngôn ngữ khác nhau của nhánh Mon-Khmer thuộc họ Nam Á. Người ta giảđịnh rằng vào thời gian này, các cư dân sử dụng những ngôn ngữ thuộc giai đoạnMon-Khmer như Việt, Khmer, Môn, Bana, Khmú, thậm chí Palaung-Wa v.v...đang là một cộng đồng có ngôn ngữ tương đối thống nhất, phân bố đều khắp ở địabàn Đông Nam Á văn hoá.Nhiều nhà nghiên cứu ước tính giai đoạn Mon-Khmer này của lịch sử tiếng Việtkết thúc muộn nhất là vào khoảng cách ngày nay ±3000–4000 năm. Vào quãngthời gian giả định đó, các đặc trưng vốn có của các ngôn ngữ Mon-Khmer thuộc họNam Á cũng chính là những đặc trưng của tiếng Việt. Đã có một vài nhà ngôn ngữhọc cố gắng tái lập lại những nét ngôn ngữ cơ bản nhất của thời kì nói trên. Theocố gắng tái lập đó, giai đoạn Mon-Khmer cổ xưa này tuy là một ngôn ngữ thốngnhất nhưng cũng đã có những khác biệt nội bộ mang tính phương ngữ sâu sắc.Người ta thường cho rằng đây là thời kì đã có sự phân biệt rõ nét trong khối Mon-Khmer thành ít nhất là khối Đông Mon-Khmer ở về phía Đông và phần còn lại củanó[1]. Khi đặt vấn đề như vậy, những nhà nghiên cứu này thường cho rằng tiếngViệt về sau này nằm ở khối Đông Mon-Khmer.1.2. Những đặc điểm chính về ngôn ngữ.Đặc điểm nổi bật nhất của khối Đông Mon-Khmer này là ngôn ngữ vẫn lưu giữnhững từ có từ thời tiền Nam Á hoặc tiền Mon-Khmer hoặc chung cho cả khốiĐông Mon-Khmer. Theo GS. Nguyễn Tài Cẩn, những từ gốc tiền Nam Á của khốingôn ngữ Đông Mon-Khmer này là những từ như: một, hai, ba, bốn, năm, bay,bắn, bú, nắng, mưa, mũi, mắt v.v... trong tiếng Việt; còn những từ gốc tiền Mon-Khmer của khối ngôn ngữ Đông Mon-Khmer này là những từ như: trời, măng,trái, trâu, mun (tro), mồ hôi v.v... trong tiếng Việt; cuối cùng những từ chung chỉcho cả khối Đông Mon-Khmer là những từ trong tiếng Việt như: rú (rừng rú),ruột, muối, cháo v.v... Người ta nhận biết điều ấy là nhờ khi so sánh những từ tiếngViệt nói trên với các ngôn ngữ Nam Á như Munda, Nicobar v.v... hay Môn,Khmer, Pear, Khmú v.v... hoặc Bana, Bru, Katu v.v... Việc phân biệt những lớp từnói trên, như vậy, là phụ thuộc vào phạm vi tương ứng giữa tiếng Việt với nhữngbộ phận ngôn ngữ khác nhau trong nội bộ họ ngôn ngữ Nam Á[2].Một đặc điểm nổi bật khác của khối Đông Mon-Khmer này là trong ngôn ngữ vẫnlưu giữ phương thức phụ tố để cấu tạo từ và trong từ song tiết Mon-Khmer âm tiếtcuối luôn được nhấn mạnh, đồng thời là phần chính ổn định nhất của từ ngữ âm.Về vấn đề phụ tố cấu tạo từ, ở khối ngôn ngữ Đông Mon-Khmer này ta cũng vẫnthấy dấu ấn của ba giai đoạn Nam Á, Mon-Khmer và Đông Mon-Khmer nhưvậy[3], tức là chúng cũng bảo lưu những hiện tượng đang nói tới ở đây giống nhưđã xử lí đối với trường hợp từ vựng. Tình hình này còn thấy khá rõ trong tiếngBru-Vân Kiều (một ngôn ngữ được cho là thuộc khối Đông Mon-Khmer). Theomô tả của Hoàng Văn Ma và Tạ Văn Thông ở ngôn ngữ này hiện vẫn còn cả cáchdùng trung tố lẫn tiền tố để tạo từ. Chẳng hạn, ở đây còn sử dụng trung tố -n- (hoặc-an-) để cấu tạo từ mới. Ví dụ: kũak (quàng), kanũak (cái để quàng), katáng(bịt kín), kantáng (cái để bịt kín), kíaq (canh giữ), kaníaq (người gác)[4]v.v...Còn đối với vấn đề cấu trúc trong cấu tạo từ, ở khối ngôn ngữ Đông Mon-Khmercó một nét riêng là âm tiết cuối luôn luôn được nhấn mạnh ở từ song tiết. Âm tiếtcuối là phần chính, phần ổn định nhất của từ[5] ngữ âm. Như vậy, giai đoạn Mon-Khmer này có thể được coi là thời kì chuẩn bị để từ đó chuyển sang một giai đoạnkhác, giai đoạn tiền Việt-Mường, một giai đoạn được chúng tôi coi là thực thụtrong lịch sử phát triển của tiếng Việt.Tuy nhiên, về giai đoạn phát triển Mon-Khmer này, hiện vẫn còn có những cáchnhìn nhận ít nhiều khác nhau tương đối tế nhị giữa các nhà nghiên cứu. Đó là trongkhối ngôn ngữ Đông Mon-Khmer, về sau tiếng Việt (hay rộng hơn là nhóm Việt-Mường) gần với nhóm Katu ở phía nam hơn hay gần với nhóm Khmú ở phía bắchơn. Theo cách nhìn nhận của G. Diffloth và một vài người khác thì nhóm Việt-Mường dường như gần với nhóm Katu hơn. Đây có thể cũng là cách nhìn nhận củaGS. Nguyễn Tài Cẩn khi ông viết rằng Ta cũng đã thấy Proto Việt Chứt [tức ...

Tài liệu được xem nhiều: