Thái độ của Nhà nước đối với hình thức sở hữu nhà nước Trước bối cảnh nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề giữ vững định hướng XHCN đặt ra nhiều thử thách. Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” có nêu: “Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”. Nghĩa là tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về công hữu, còn không...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các hình thức sở hữu hiến định – Phần 2
Các hình thức sở hữu hiến định –
Phần 2
1.3.1.3. Thái độ của Nhà nước đối với hình thức sở hữu nhà nước
Trước bối cảnh nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề giữ
vững định hướng XHCN đặt ra nhiều thử thách. Trong “C ương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” có nêu: “Có một nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu”. Nghĩa là tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về công hữu, còn không chủ yếu có
thể thuộc những hình thức sở hữu khác, kể cả sở hữu cá nhân. Nhà nước ta lấy sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nòng cốt, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng phát triển trở thành nền tảng vững chắc các
thành phần khác được khuyến khích phát triển.
Nền kinh tế nước ta qua từng thời kì đã phát triển ngày càng đa dạng phong phú,
đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
1.3.1.4. Cơ sở pháp lý để hình thành sở hữu nhà nước
Những tài sản thuộc sở hữu nhà nước được hình thành bằng nhiều cách, trên
những cơ sở pháp lý khác nhau như:
-Một là bằng con đường tiếp thu những tài sản của Nhà nước, chế độ cũ để lại.
Chẳng hạn, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước ta đã tiếp thu những
tài sản của Nhà nước thực dân phong kiến (triều đình Huế để lại). Hay sau khi giải
phóng miền Nam, Nhà nước ta đã tiếp thu những tài sản của chế độ Mĩ-Ngụy để
lại.
-Hai là bằng con đường tịch thu, trưng thu những tài sản của bọn Việt gian, tư sản
mại bản, của bọn làm ăn phi pháp hoặc những tài sản mà Nhà nước quy định thuộc
quyền sở hữu của Nhà nước như các di sản văn hóa, kim khí, đá quý, nằm trong
lòng đất.
-Ba là bằng con đường thu thuế, Nhà nước ban hành các luật thuế để quy định cụ
thể các loại thuế, nghĩa vụ nộp thuế và mức độ thu cụ thể đối với từng đối tượng.
Thuế là nguồn thu thường xuyên, lớn nhất vào ngân sách hàng năm.
-Bốn là bằng con đường quốc hữu hóa những cơ sở kinh tế của địa chủ, phong
kiến và tư sản mại bản cũng như tuyên bố quốc hữu hóa đối với những tư liệu sản
xuất chủ yếu như ruộng đất, sông hồ, hầm mỏ…Nhà nước có được những khách
thể nhất định.
-Năm là trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, các hình thức sở hữu tư nhân, sở
hữu tập thể có thể chuyển hóa thành sở hữu nhà nước thông qua các hình thức:
công tư hợp doanh, liên doanh…
-Sáu là con đường tích lũy trên cơ sở bảo toàn vốn, nâng cao năng suất, chất lượng
lao động, làm ăn có lãi, bảo đảm đời số g của công nhân và có tích lũy cho Nhà
nước đối với các đơn vị kinh tế nhà nước…
-Bảy là bằng sự giúp đỡ không hoàn lại của các nước, các tổ chức, cá nhân trong
nước và trên thế giới…
Tài sản thuộc sở hữu nhà nước là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, là thành quả
của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước ta quy định: “Công dân có nghĩa vụ
tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng” (điều 78 Hiến pháp
năm 1992). Bộ luật hình sự cũng như các văn bản pháp luật khác có những quy
định cụ thể để bảo vệ sở hữu nhà nước. Thực tế trong những năm qua do chưa
phân công trách nhiệm, phân ấp quản lý rõ ràng nên tài sản thuộc sở hữu nhà nước
bị xúc phạm nghiêm trọng dưới nhiều hình thức như: Tham ô, lãng phí, trộm cắp,
lừa đảo, hủy hoại…Để khắc phục những hiện tượng trên, bảo toàn và mở rộng
phạm vi của sở hữu nhà nước, một mặt Nhà nước phải tăng cường giáo dục, thuyết
phục, mặt khác phải kiên quyết áp dụng các biện pháp pháp luật; khắc phục tình
trạng sơ hở trong việc ban hành văn bản pháp luật cũng nh ư trong quản lý kinh tế.
Hiện nay trong công cuộc đổi mới, sở hữu nhà nước đang điều chỉnh theo hai
hướng.
+Một là xác định những khu vực, đơn vị được coi là then chốt, chủ yếu nhất như là
các cơ sở công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo máy, công nghiệp hóa chất, giao
thông, vận tải… phải củng cố và mở rộng sở hữu nhà nước. Mặt khác, phải thu
hẹp sở hữu nhà nước ở những ngành, những lĩnh vực, đơn vị kinh tế làm ăn kém
hiệu quả hoặc chưa thực sự cần thiết dưới nhiều hình thức như: chuyển quyền sở
hữu, bán đấu thầu, chuyển thành công ty cổ phần…
+Hai là thực hiện phân cấp quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước nhằm mục đích
bảo toàn và phát triển số tài sản này. Thực hiện chủ trương đó, trong những năm
qua chúng ta đã tiến hành rộng rãi việc giao vốn cho các đơn vị kinh tế quốc
doanh, trên cơ sở đó tăng cường trách nhiệm trong việc sử dụng vốn của các đơn
vị kinh tế quốc doanh. Còn đối với ruộng đất là sở hữu nhà nước cũng được quy
định quyền sử dụng ổn định và lâu dài đối với cá nhân và tập thể được giao. Chế
độ giao vốn, ruộng đất cũng như tài sản khác của Nhà nước cho chủ thể sử dụng sẽ
loại bỏ dần tình trạng vô trách nhiệm đối với sở hữu nhà nước, bảo đảm hiệu quả
kinh tế thực sự chứ không phải biến quá trình sản xuất thành quá trình ăn mòn sở
hữu nhà nước với mỗi xí nghiệp, chủ thể sử dụng. Để tạo cơ sở pháp lý cho các
hoạt động nói trê ...