Danh mục

Các hình thức sở hữu hiến định – Phần 5

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 165.46 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chính sách sở hữu trong lịch sử lập hiến Việt Nam Việt Nam đã trải qua 5 kỳ soạn thảo Hiến pháp kể từ năm 1946 đến 2001. Vấn đề sở hữu được nhìn nhận khác nhau qua các thời kì, trong đó sở hữu tư nhân với vai trò nhất định của nó không phải lúc nào cũng được Nhà nước thừa nhận trong các bản Hiến pháp. Hiến pháp 1946 có 7 chương với 70 điều nhưng không có chương nào quy định về chế độ kinh tế và chỉ có duy nhất 1 điều quy định...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các hình thức sở hữu hiến định – Phần 5 Các hình thức sở hữu hiến định – Phần 5 1.4. Chính sách sở hữu trong lịch sử lập hiến Việt Nam Việt Nam đã trải qua 5 kỳ soạn thảo Hiến pháp kể từ năm 1946 đến 2001. Vấn đề sở hữu được nhìn nhận khác nhau qua các thời kì, trong đó sở hữu tư nhân với vai trò nhất định của nó không phải lúc nào cũng được Nhà nước thừa nhận trong các bản Hiến pháp. Hiến pháp 1946 có 7 chương với 70 điều nhưng không có chương nào quy đ ịnh về chế độ kinh tế và chỉ có duy nhất 1 điều quy định về vấn đề sở hữu đó l à Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm (Điều 12) nằm trong Chương II – Nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. Có thể lý giải vấn đề này là do hoàn cảnh lịch sử đất nước ta lúc bấy giờ vừa mới giành được độc lập từ tay thực dân Pháp, nhu cầu về một bản HP thống nhất là vô cùng bức thiết, đó cũng là một trong những nhiệm vụ cấp bách được Hồ Chủ tịch đưa ra tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945 “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không đ ược hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ” , và vấn đề quan tâm hàng đầu thời kỳ đó là vấn đề chính trị, xã hội, là bảo vệ tổ quốc, là tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, vấn đề kinh tế do đó không được chú trọng là lẽ dễ hiểu. Nhìn vào cơ cấu bản HP 1946 ta dễ dàng nhận ra điều đó, trong toàn bộ 7 chương với 70 điều thì hầu hết quy định về vấn đề chính trị, xã hội, tổ chức bộ máy nhà nước với 5 chương với 51 điều. HP 1959 lần đầu tiên nhà nước đề cập đến sở hữu tư nhân và thừa nhận nó dưới dạng: -Hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ -Hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc qui định tại Điều 11Ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc.” Hiến pháp 1959 đã đề cập và giải thích chi tiết sở hữu tư nhân bao gồm những thành phần nào và tất cả đều được nhà nước bảo hộ bình đẳng như nhau. Tại các Điều 14, 15, 16, 18, nhà nước thể hiện sự quan tâm đến các hình thức sở hữu của nhiều tầng lớp trong xã hội, trong đó có tầng lớp nông dân (Điều 14), những người làm nghề thủ công, những người lao động riêng lẻ (Điều 15), các nhà tư sản dân tộc (Điều 16). Đồng thời Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở các thứ vật dụng riêng khác. (Điều 18) Tuy nhiên đến HP 1980 sở hữu tư nhân đã không được thừa nhận sự tồn tại trong nền kinh tế, nhà nước với mục tiêu tiến hành cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN, đã thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể, trong đó sở hữu toàn dân được chú trọng. (Điều 18) Ngoài tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, công trình công cộng v.v… nhà nước còn trưng thu toàn bộ tài sản của giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản (Điều 25) đưa vào sở hữu toàn dân. Và nhà nước chỉ bảo vệ tài sản của công dân với điều kiện “được phép lao động riêng lẻ” (Điều 27) Đến giai đoạn này ta thấy có một sự thay đổi r õ rệt trong đường lối của nhà nước, với nôn nóng xây dựng XHCN ở miền Bắc làm nền tảng kinh tế, là hũ gạo để nuôi sống miền Nam trong cuộc tr ường kỳ kháng chiến, các nhà lãnh đạo đã tư duy sai lầm khi lựa chọn nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung làm cơ sở để thực hiện chiến lược của mình. Việc quá coi trọng sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể không thừa nhận bộ phận sở hữu tư nhân đã đưa đất nước ta vào giai đoạn “đêm đen”, nhà nước sản xuất mọi thứ và bao tiêu mọi thứ với giá cả bất hợp lý, thị tr ường không tồn tại, chỉ có tem, phiếu và mọi công dân phải xếp hàng để được nhận những mặt hàng không những không phù hợp với nhu cầu mà còn kém chất lượng, thậm chí không thể sử dụng. Tiêu chí làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu thể hiện sự bất hợp lý, nó tiêu diệt động lực lao động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận của các cá nhân, thành phần kinh tế tư nhân không được thừa nhận cho nên phải hoạt động lén lút cầm chừng, không tự do buôn bán, không thương mại, không xuất nhập khẩu, nền kinh tế không có động lực để phát triển và ngày càng suy yếu. HP 1980 đã góp phần đưa đất nước lùi một khoảng dài hàng chục năm so với thời cuộc. Tuy nhiên nhà nước đã nhận ra và sửa chữa sai lầm của mình bằng công cuộc đổi mới toàn diện 1986. Trên cơ sở đó HP 1992 ra đời sau đó được sửa đổi bổ sung đã khắc phục nhiều nhược điểm của HP 1980 trong đó quan trọng nhà nướcthực hiện nhất quán chính sáchphát triển nền kinh tếthị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. (Điều 15) Việc nhà nước thừa nhận trở lại sở hữu tư nhân cho thấy nhìn nhận đúng đắn về vai trò của các thành phần kinh tế: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 16). Trên tinh thần đó nhà nước cam kết bằng HP bảo vệ tài sản hợp pháp của mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội (Điều 23), kể cả các cá nhân và tổ chức nước ngoài (Điều 25). Đây là điểm tiến bộ của HP 1992 (sửa đổi bỏ sung 2001) so với tất cả các bản HP trước đó, thể hiện kỹ thuật lập hiến của VN ngày càng được nâng cao. Tóm lại ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể tương ứng với từng bản HP, vấn đề về sở hữu nói chung và sở hữ ...

Tài liệu được xem nhiều: