Thông tin tài liệu:
Không gian màu là gì ? Không gian màu là những phương pháp định lượng màu sắc được thiết lập công thức một cách khoa học. Hệ thống không gian màu cho phép mỗi màu được xác định theo số học, bằng cách đó ta có thể chọn và lặp lại những màu nào đó thật chính xác. Bạn sẽ tiếp xúc với những không gian màu chính sau đây: HLS (sắc thái, quang độ và độ bão hòa),
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các khái niệm về không gian màu, phổ màu và chiều sâu BIT.Các khái niệm về không gian màu, phổ màu và chiều sâu BIT. Không gian màu là gì ? Không gian màu là những phương pháp định lượng màu sắc được thiết lập công thức một cách khoa học. Hệ thống không gian màu cho phép mỗi màu được xác định theo số học, bằng cách đó ta có thể chọn và lặp lại những màu nào đó thật chính xác. Bạn sẽ tiếp xúc với những không gian màu chính sau đây: HLS (sắc thái, quang độ và độ bão hòa), HSB (sắc thái, độ bão hòa và độ đậm nhạt), RGB (đỏ, lục, lam) và CYMK (xanh hóa học, vàng, tím sen, đen). CMYK là không gian màu được sử dụng trong công nghiệp in ấn và bị giới hạn bởi mức độ thể hiện của mực in và chất màu. Không gian RGB - hệ thống màu thường gặp nhất trong nghệ thuật nhiếp ảnh số - sử dụng ánh sáng, do vậycho ta phổ màu rộng hơn các chất màu CYMK. Điều quan trọng là bạn phải lưu ý sự khácbiệt giữa những hệ thống màu mà bạn đang làm việc với những biến đổi màu có thể sẽxảy ra giữa màn hình hiển thị và kết xuất in ấn.“Gamut” có nghĩa là gì?Gamut (phổ màu) là thuật ngữ được sử dụng để mô tả toàn bộ một dãy màu sắc mà mộtthiết bị ảnh số hay một loại chất liệu nào đó có thể tạo ra. Mỗi thiết bị chỉ có thể tạo sẵnmột nhóm nhỏ thuộc không gian màu. Ví dụ: nhiều loại màn hình màu sử dụng phốt-phođể thể hiện màu sắc và gamut của màn hình màu thậm chí sẽ lớn hơn so với gamut củamột máy in loại tốt, do đó bản in của bạn bao giờ cũng ít màu hơn (nhưng chuyển tôngmịn hơn) so với cùng hình ảnh được thể hiện trên màn hình màu.Độ sâu bit là gì?Độ sâu bit hay còn gọi là độ sâu của màu là sự đo lường khả năng một ảnh có thể chứabao nhiêu màu chuyên biệt. Một ảnh chỉ chứa màu đen và màu trắng, như một ảnh hìnhbóng đen trên nền trắng, chỉ cần tối thiểu 1 bit cho mỗi ảnh điểm, chính vì vậy mà loạiảnh này được gọi là ảnh 1-bit (Thuật ngữ ‘bit’ đại diện cho cụm từ ‘binary digit’ và 1 bitlà đơn nhỏ nhất dùng để tính dung lượng lưu trữ).10a-Hình ảnh thang độ xám 8-bit: Có tới 256 tông xám khác biệt có sẵn trong các ảnh8-bit. Chi tiết này, đã được convert thành thang độ xám, cho ta thấy vô số độ đậm nhạt cótrong bức ảnh phong cảnh.10b-Hình ảnh màu indexed 4-bit: Việc giới hạn số lượng màu trong phạm vi 16 sẽ tạora một ảnh 4-bit. Phần mềm convert đã sử dụng sử dụng bất cứ màu nào mà nó có thểdùng, điều này cho kết quả là màu đỏ tươi của của cái cây đã bị chuyển thành màu nâucam. Lưu ý sự thay đổi tông thiếu mịn màng giữa các màu do thiếu các màu có sẵn.10c-Hình ảnh trắng và đen 1-bit: Giảm số lượng màu xuống chỉ còn trắng và đen thôita sẽ tạo ra một ảnh 1-bit. Xin lưu ý rằng tất cả các giá trị tông đều đã được convert thànhhoặc là đen hoặc là trắng mà không có sự chuyển êm của tông.Các ảnh chụp trắng đen cần 256 thang độ xám để tạo ra các tông mịn êm, được gọi là ảnh8-bit vì chúng cần 8 bits để lưu giữ 1 ảnh điểm. Các ảnh màu RGB sử dụng thông tinthang độ xám 8-bit cho mỗi kênh màu, do vậy chúng cần dung lượng nhiều hơn gấp 3 lầnso với ảnh thang độ xám nên được gọi là ảnh 24-bit.Nhiều thiết bị ghi ảnh sử dụng độ sâu bit cao hơn, như 48 bits chẳng hạn, để trích nhiềuthông tin hơn từ nguyên bản. Những thiết bị này sử dụng 16 bits cho mỗi màu (dựa trên 3màu) để ghi lại hình ảnh. Tuy thế những ảnh 48-bit thường phải được convert thành cácảnh 24-bit trước khi tiến hành chỉnh sửa mặc dù phần mềm chất lượng cao có thể làmđược một vài việc trực tiếp trên ảnh 48-bit.Người dịch: Phạm Xuân BáchTrích dịch từ bản tiếng Anh cuốn “Digital photography problem solver” của tác giả LesMeehan.