Danh mục

CÁC KỸ THUẬT MIỄN DỊCH THƯỜNG DÙNG – PHẦN 4

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 177.16 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Phát hiện các sản phẩm phân cắt của C3 Xét nghiệm này rất có ích trong trường hợp bệnh nhân bị sốc nội độc tố, tức là khi trong cơ thể có khả năng hoạt hóa C3 theo đường không cổ điển. Độ di chuyển trên điện di của C3 và các sản phẩm phân cắt của nó (ví dụ C3dg) khác nhau. Đối với các mẫu huyết tương lấy từ bệnh nhân đã có phân cắt C3 in vivo thì các sản phẩm phân cắt có thể phát hiện được trong huyết tương chống đông bằng EDTA, trong...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CÁC KỸ THUẬT MIỄN DỊCH THƯỜNG DÙNG – PHẦN 4 CÁC KỸ THUẬT MIỄN DỊCH THƯỜNG DÙNG – PHẦN 4 12.5.3. Phát hiện các sản phẩm phân cắt của C3 Xét nghiệm này rất có ích trong trường hợp bệnh nhân bị sốc nội độc tố, tức là khitrong cơ thể có khả năng hoạt hóa C3 theo đường không cổ điển. Độ di chuyển trên điệndi của C3 và các sản phẩm phân cắt của nó (ví dụ C3dg) khác nhau. Đối với các mẫuhuyết tương lấy từ bệnh nhân đã có phân cắt C3 in vivo thì các sản phẩm phân cắt có thểphát hiện được trong huyết tương chống đông bằng EDTA, trong khi đó trong các mẫuhuyết tương bình thường chỉ có thể phát hiện C3 còn nguyên vẹn. Sự hiện diện củaEDTA ngăn chặn được sự phân cắt xảy ra in vitro sau khi lấy máu tĩnh mạch. 12.5.4. Yếu tố viêm thận C3 (C3NeF) Yếu tố viêm thận C3 là một tự kháng thể chống C3 hoạt hóa. Tự kháng thểnày làm bền vững enzym C3 convertase của con đường không cổ điển và cho phépsự phân cắt C3 tiếp tục xảy ra. Người ta nghi ngờ có C3 NeF trên những bệnh nhâncó mức C3 thấp không giải thích được; đây thường là những người mắc bệnh thậnhoặc nhiễm trùng tái đi tái lại. Yếu tố này được phát hiện bằng cách cho huyếtthanh bệnh nhân ủ với huyết thanh bình thường; cách này làm cho yếu tố viêmthận C3 của bệnh nhân phân cắt C3 trong huyết thanh bình thường. Và chúng tađem hỗn hợp này cho định lượng C3c. 12.6. Khảo sát phức hợp miễn dịch Rất nhiều bằng chứng đã cho thấy rằng phức hợp miễn dịch đã tham gia vàocơ chế bệnh sinh của tổn th ương mô trong nhiều bệnh của người. Việc tham giagây triệu chứng lâm sàng của phức hợp miễn dịch thường được đánh giá bằng haicách: cách thứ nhất là phân tích các hình ảnh tổn thương mô để tìm bằng chứngcủa sự lắng đọng phức hợp miễn dịch, và cách kia là tìm phức hợp miễn dịch tronghuyết thanh và các dịch cơ thể. Trong một số bối cảnh lâm sàng việc phát hiện phức hợp miễn dịch tỏ rakhông cần thiết và sự hiện diện của phức hợp miễn dịch l ưu động không đặc hiệucho bất cứ bệnh phức hợp miễn dịch nào. Các tổn thương do phức hợp miễn dịchgây ra có thể xuất hiện mà không thấy có phức hợp miễn dịch lưu động; và ngượclại chúng ta lại thường có thể tìm thấy phức hợp trong huyết thanh người bìnhthường. Phát hiện phức hợp lưu động có thể có ích cho việc đánh giá hiệu quả củathay huyết tương. Đối với tất cả những trường hợp nghi ngờ có vai trò bệnh sinhcủa phức hợp miễn dịch, chúng ta nên tiến hành khảo sát trực tiếp sinh thiết mônếu được, và nhớ rằng khảo sát này không thể thay thế bằng thử nghiệm tìm phứchợp lưu động được. Việc xét nghiệm phức hợp miễn dịch huyết thanh không phải bệnh viện n àocũng thực hiện. Hơn nữa, giữa các bệnh viện luôn có sự khác nhau rất lớn về kếtquả đạt được vì thế mà việc chuẩn hóa là một điều kiện quan trọng trước khi đưaxét nghiệm vào thường quy xét nghiệm. Hiện nay, trên thế giới ta đã có bán nhữngsản phẩm chuẩn cho những phòng thí nghiệm miễn dịch đặc biệt chuyên khoa. Nhưngdù sao, khi làm xét nghiệm này, các kết qủa phải được đánh giá trong phối hợp giữala-bô và bác sĩ lâm sàng. Có nhiều phương pháp phát hiện phức hợp miễn dịch lưu động, mỗi phươngpháp điều có ưu điểm riêng. Nguyên lý của những phương pháp này là phát hiệnimmunoglobulin có trong phức hợp mà không cần chú ý bản chất của kháng nguyênlà gì. Cơ sở của kỹ thuật kết tủa lạnh (cryo-precipitation) chưa được hiểu hoàn toànvà phương pháp này chỉ phát hiện được một số phức hợp nào đó. Những xétnghiệm phụ thuộc vào thụ thể bổ thể không phát hiện được phức hợp có mangkháng thể thuộc loại không cố định và hoạt hóa bổ thể. Những thử nghiệm đối vớithụ thể Fc không phát hiện được những phức hợp chứa những immunoglobulinkhông phải là IgG. Ngoài ra, tất cả các phương pháp đều dễ bị gây trở ngại bởinhững chất không phải là phức hợp miễn dịch. Và, hiện nay, chưa có cách nào đểphân biệt những immunoglobulin kết tủa không đặc hiệu với phức hợp miễn dịchthật sự. Việc bảo quản huyết thanh không đúng cách, việc làm tan rồi làm đônghuyết thanh nhiều lần có thể làm cho immunoglonulin kết tủa. Tuy vậy, qua nhiềubáo cáo của các công trình hợp tác của Tổ chức Y tế thế giới, người ta thấy rõrằng có một số xét nghiệm (đặc biệt là xét nghiệm liên kết C1q, thử nghiệmconglutinin, thử nghiệm ức chế yếu tố thấp đơn clôn, xét nghiệm dùng tế bào Raji)giúp phân biệt được huyết thanh bình thường. Kết quả dương tính của những xétnghiệm này chứng tỏ có sự hiện diện của phức hợp miễn dịch l ưu động trong máubệnh nhân. 12.7. Khảo sát lymphô bào Có ba kiểu xét nghiệm dùng để đánh giá tế bào: (1) đếm số lượng các loại tế bào;(2) thử nghiệm in vivo; và (3) đánh giá chức năng của từng loại tế bào. 12.7.1. Đếm số lượng tế bào lymphô Chúng ta bắt đầu khảo sát được các tiểu quần thể tế bào lympho từ khi biếtrằng chúng có mang các dấu ấn bề mặt khác nhau. Đếm số lượng tế bào lymphotrong các tiểu quần thể T và B rất có ý nghĩa đối với các bệnh thiếu hụt miễn dịchvà tăng sinh lymphô. Xét nghiệm này ngày càng được áp dụng cho bệnh nhânnhiễm HIV để đánh giá mức độ suy giảm miễn dịch và tiên lượng cũng như đểtheo dõi các liệu pháp chống virus thực nghiệm. Người ta đã đưa ra một sơ đồ đảmbảo chất lượng để chuẩn hóa dần xét nghiệm n ày. Tất cả mọi đánh giá đối với tế bào lympho đều phải tiến hành với máu chốngđông mới lấy và chỉ sau khi có ý kiến tham vấn của la-bô miễn dịch. Trong xétnghiệm này, chúng ta có thể dùng máu toàn phần hoặc tế bào lympho đã tách.Việc tách tế bào lympho từ máu toàn phần được thực hiện bằng cách đặt máu đãchống đông bằng heparin lên chất Ficoll có tỉ trọng thích hợp. Sau khi ly tâm,hồng cầu và bạch cầu múi và chìm vào lớp Ficoll để lại toàn bộ tế bào lympho vàmột vài monocyte trên bề mặt của lớp Ficoll. Lớp tế bào này có thể hút ra dễ dàngbằng ống hút và đem rửa sạch để dùng (Hình 12.13). Tất cả đã sản xuất kháng thể đơn clôn ...

Tài liệu được xem nhiều: