CÁC KỸ THUẬT MIỄN DỊCH THƯỜNG DÙNG
Số trang: 33
Loại file: pdf
Dung lượng: 977.08 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Ngày nay, kỹ thuật miễn dịch dùng trong lâm sàng rất phong phú và đa dạng, vì thế mà các nhà lâm sàng rõ ràng là cũng nên có một số kiến thức nhất định về những kỹ thuật này, tối thiểu là cũng phải nắm được độ chính xác và độ tin cậy của kỹ thuật mà mình yêu cầu. Mục đích của chúng tôi trong chương trình này là nhằm giới thiệu những nguyên lý của các kỹ thuật miễn dịch lâm sàng đang được dùng phổ biến ở các cơ sở chẩn đoán và điều trị...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CÁC KỸ THUẬT MIỄN DỊCH THƯỜNG DÙNG Chương 12 CÁC KỸ THUẬT MIỄN DỊCH THƯỜNG DÙNG Ngày nay, kỹ thuật miễn dịch dùng trong lâm sàng rất phong phú và đadạng, vì thế mà các nhà lâm sàng rõ ràng là cũng nên có một số kiến thứcnhất định về những kỹ thuật này, tối thiểu là cũng phải nắm được độ chínhxác và độ tin cậy của kỹ thuật mà mình yêu cầu. Mục đích của chúng tôitrong chương trình này là nhằm giới thiệu những nguyên lý của các kỹ thuậtmiễn dịch lâm sàng đang được dùng phổ biến ở các cơ sở chẩn đoán và điềutrị trên thế giới; đồng thời nêu lên một số nhận định của chúng tôi về nhữngkhó khăn trong khi phân tích kết quả đạt được. Các thử nghiệm la-bô cũng được phân cấp độ tùy theo giá trị của chúngđối với từng trường hợp bệnh nhân cụ thể. Một số thử nghiệm được xếp vàoloại cần thiết (essential) cho chẩn đoán hoặc theo dõi, một số thuộc loại tùychọn (optional) nhưng có ích và số còn lại là loại chỉ để nghiên cứu. Một sốxét nghiệm sẽ trở nên vô ích nếu chúng ta yêu cầu không đúng lúc, đúngchỗ. Các phân chia như trên của chúng tôi sẽ giúp các nhà lâm sàng có đượcchỉ định thích hợp cho mỗi thử nghiệm. Trong chương này, chúng tôi cũngkhông mô tả chi tiết phương pháp tiến hành kỹ thuật vì đó là nội dung củacác sách chuyên đề về kỹ thuật miễn dịch mà chúng tôi dự kiến cho xuất bảntrong nay mai. Có ba nhóm kỹ thuật đã được xây dựng để đánh giá năng lực miễn dịch của các bộphận riêng lẻ trong đáp ứng miễn dịch. Các yếu tố dịch thể như immunoglobulin, khángthể, các thành phần bổ thể và các protein đặc hiệu khác đều có thể định lượng được chínhxác. Giới hạn bình thường cho các yếu tố này sẽ được trình bày và kết quả sẽ được phân tíchtheo lâm sàng một cách dễ hiểu. Ngược lại, các thử nghiệm về các thành phần tế bào thì khóthực hiện hơn cũng như khó phân tích hơn. Chưa có kỹ thuật nào được gọi là chuẩn đối vớiphương pháp đánh giá tế bào, vì thế mà ở mỗi la-bô người ta thường làm một cách khác nhau.Để cho việc phân tích kết quả được tốt, cần phải có liên hệ chặt chẽ giữa các nhà miễn dịch vànhà lâm sàng. Các thử nghiệm in vivo nhằm đánh giá cả yếu tố dịch thể lẫn tế bào có giá trị khikhảo sát thiếu hụt miễn dịch và quá mẫn nhưng rất khó chuẩn hóa. 12.1. Định lượng immunoglobulin và các protein đặc hiệu khác Định lượng immunoglobulin (Ig) tỏ ra rất cần thiết đối với những bệnh nhân nhiễmtrùng nặng hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần cũng như đối với những bệnh nhân rối loạn tăngsinh lympho. Việc định lượng nhiều lần có thể giúp chúng ta phân biệt thiếu hụt miễndịch thoáng qua và thường xuyên cũng như giúp chúng ta theo dõi điều trị trong bệnhtăng sinh lymphô. Việc định lượng này tỏ ra có ích đối với các bệnh cảnh có giảmgammaglobulin máu như nhiễm trùng HIV, bệnh gan và SLE. Nhiều - + + + +++Biểu diễn bằng sơ đồ: Hình 12.1. Sơ đồ minh họa các điểm cân đối của tỉ lệ kháng nguyên – kháng thể để có thể tạo tủa. Khi thừa kháng nguyên hoặc kháng thể thì ít liên kết chéo xảy ra nên tủa rất ít hoặc không có. Kỹ thuật thường được dùng phổ biến nhất là miễn dịch kết tủa(immunoprecipitation). Tủa miễn dịch được hình thành khi kháng nguyên và kháng thểkết tủa tương ứng cùng hiện diện với nồng độ tương ứng tối ưu (cân bằng) (Hình 12.1).Miễn dịch khuyếch tán đơn (single radial imminodifusion, RID) là kỹ thuật được Mancinisử dụng và mô tả đầu tiên. Kỹ thuật này sử dụng một kháng huyết thanh này được hòa tanvào thạch đun lỏng, và hỗn hợp thạch-kháng huyết thanh được đổ rải đều lên một phiếnkính đặt trên mặt phẳng ngang. Sau khi thạch đông, người ta đục các lỗ tròn trên thạch vàcho huyết thanh cần đo hoặc huyết thanh chứng vào. Kháng nguyên, mà trong trường hợpnày là immunoglobulin, sẽ khuyếch tán theo hướng ly tâm từ các lỗ ra vùng thạch cóchứa kháng huyết thanh chung quanh. Bởi vì nồng độ kháng thể (kháng huyết thanh trongthạch) cố định nên khi kháng nguyên trong lỗ khuyếch tán thì nồng độ giảm dần cho đếnkhi có tỷ lệ thích hợp với nồng độ kháng thể trong thạch thì một vòng tủa sẽ hình thành.Đối với mỗi mẻ người ta làm ba lỗ chứa kháng nguyên với nồng độ biết trước để vẽ thànhđường chuẩn (Hình 12.2). Đường kính vòng bình phương (d)2 Ο Ο Ο Thạch chứa kháng Ththchặchứu ạ ể đ c hiệ a Chuẩn 1 Ο • ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CÁC KỸ THUẬT MIỄN DỊCH THƯỜNG DÙNG Chương 12 CÁC KỸ THUẬT MIỄN DỊCH THƯỜNG DÙNG Ngày nay, kỹ thuật miễn dịch dùng trong lâm sàng rất phong phú và đadạng, vì thế mà các nhà lâm sàng rõ ràng là cũng nên có một số kiến thứcnhất định về những kỹ thuật này, tối thiểu là cũng phải nắm được độ chínhxác và độ tin cậy của kỹ thuật mà mình yêu cầu. Mục đích của chúng tôitrong chương trình này là nhằm giới thiệu những nguyên lý của các kỹ thuậtmiễn dịch lâm sàng đang được dùng phổ biến ở các cơ sở chẩn đoán và điềutrị trên thế giới; đồng thời nêu lên một số nhận định của chúng tôi về nhữngkhó khăn trong khi phân tích kết quả đạt được. Các thử nghiệm la-bô cũng được phân cấp độ tùy theo giá trị của chúngđối với từng trường hợp bệnh nhân cụ thể. Một số thử nghiệm được xếp vàoloại cần thiết (essential) cho chẩn đoán hoặc theo dõi, một số thuộc loại tùychọn (optional) nhưng có ích và số còn lại là loại chỉ để nghiên cứu. Một sốxét nghiệm sẽ trở nên vô ích nếu chúng ta yêu cầu không đúng lúc, đúngchỗ. Các phân chia như trên của chúng tôi sẽ giúp các nhà lâm sàng có đượcchỉ định thích hợp cho mỗi thử nghiệm. Trong chương này, chúng tôi cũngkhông mô tả chi tiết phương pháp tiến hành kỹ thuật vì đó là nội dung củacác sách chuyên đề về kỹ thuật miễn dịch mà chúng tôi dự kiến cho xuất bảntrong nay mai. Có ba nhóm kỹ thuật đã được xây dựng để đánh giá năng lực miễn dịch của các bộphận riêng lẻ trong đáp ứng miễn dịch. Các yếu tố dịch thể như immunoglobulin, khángthể, các thành phần bổ thể và các protein đặc hiệu khác đều có thể định lượng được chínhxác. Giới hạn bình thường cho các yếu tố này sẽ được trình bày và kết quả sẽ được phân tíchtheo lâm sàng một cách dễ hiểu. Ngược lại, các thử nghiệm về các thành phần tế bào thì khóthực hiện hơn cũng như khó phân tích hơn. Chưa có kỹ thuật nào được gọi là chuẩn đối vớiphương pháp đánh giá tế bào, vì thế mà ở mỗi la-bô người ta thường làm một cách khác nhau.Để cho việc phân tích kết quả được tốt, cần phải có liên hệ chặt chẽ giữa các nhà miễn dịch vànhà lâm sàng. Các thử nghiệm in vivo nhằm đánh giá cả yếu tố dịch thể lẫn tế bào có giá trị khikhảo sát thiếu hụt miễn dịch và quá mẫn nhưng rất khó chuẩn hóa. 12.1. Định lượng immunoglobulin và các protein đặc hiệu khác Định lượng immunoglobulin (Ig) tỏ ra rất cần thiết đối với những bệnh nhân nhiễmtrùng nặng hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần cũng như đối với những bệnh nhân rối loạn tăngsinh lympho. Việc định lượng nhiều lần có thể giúp chúng ta phân biệt thiếu hụt miễndịch thoáng qua và thường xuyên cũng như giúp chúng ta theo dõi điều trị trong bệnhtăng sinh lymphô. Việc định lượng này tỏ ra có ích đối với các bệnh cảnh có giảmgammaglobulin máu như nhiễm trùng HIV, bệnh gan và SLE. Nhiều - + + + +++Biểu diễn bằng sơ đồ: Hình 12.1. Sơ đồ minh họa các điểm cân đối của tỉ lệ kháng nguyên – kháng thể để có thể tạo tủa. Khi thừa kháng nguyên hoặc kháng thể thì ít liên kết chéo xảy ra nên tủa rất ít hoặc không có. Kỹ thuật thường được dùng phổ biến nhất là miễn dịch kết tủa(immunoprecipitation). Tủa miễn dịch được hình thành khi kháng nguyên và kháng thểkết tủa tương ứng cùng hiện diện với nồng độ tương ứng tối ưu (cân bằng) (Hình 12.1).Miễn dịch khuyếch tán đơn (single radial imminodifusion, RID) là kỹ thuật được Mancinisử dụng và mô tả đầu tiên. Kỹ thuật này sử dụng một kháng huyết thanh này được hòa tanvào thạch đun lỏng, và hỗn hợp thạch-kháng huyết thanh được đổ rải đều lên một phiếnkính đặt trên mặt phẳng ngang. Sau khi thạch đông, người ta đục các lỗ tròn trên thạch vàcho huyết thanh cần đo hoặc huyết thanh chứng vào. Kháng nguyên, mà trong trường hợpnày là immunoglobulin, sẽ khuyếch tán theo hướng ly tâm từ các lỗ ra vùng thạch cóchứa kháng huyết thanh chung quanh. Bởi vì nồng độ kháng thể (kháng huyết thanh trongthạch) cố định nên khi kháng nguyên trong lỗ khuyếch tán thì nồng độ giảm dần cho đếnkhi có tỷ lệ thích hợp với nồng độ kháng thể trong thạch thì một vòng tủa sẽ hình thành.Đối với mỗi mẻ người ta làm ba lỗ chứa kháng nguyên với nồng độ biết trước để vẽ thànhđường chuẩn (Hình 12.2). Đường kính vòng bình phương (d)2 Ο Ο Ο Thạch chứa kháng Ththchặchứu ạ ể đ c hiệ a Chuẩn 1 Ο • ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chuyên ngành y khoa tài liệu y khoa lý thuyết y học giáo trình y học bài giảng y học bệnh lâm sàng chuẩn đoán bệnhGợi ý tài liệu liên quan:
-
38 trang 166 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 166 0 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 155 0 0 -
Bài giảng Kỹ thuật IUI – cập nhật y học chứng cứ - ThS. BS. Giang Huỳnh Như
21 trang 152 1 0 -
Bài giảng Tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu - TS. Nguyễn Viết Kình
93 trang 151 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 124 0 0 -
40 trang 101 0 0
-
Bài giảng Thoát vị hoành bẩm sinh phát hiện qua siêu âm và thái độ xử trí
19 trang 98 0 0 -
Bài giảng Chẩn đoán và điều trị tắc động mạch ngoại biên mạn tính - TS. Đỗ Kim Quế
74 trang 92 0 0 -
40 trang 66 0 0