Thông tin tài liệu:
Trong các cuộc chiến tranh, ngoài các vũ khí sát thương thông thường, các bên tham chiến thường sử dụng các loại hóa chất khác nhau nhằm tiêu hao khả năng chiến đấu của đối phương. Các loại hóa chất gây độc đó có tên gọi chung là vũ khí hóa học hoặc chất độc quân sự hay rộng hơn là chất độc hóa học. Nhiều người cho rằng rằng chất độc hóa học giống như chất khí màu lục nhạt, có mùi hắc, khó chịu. Tuy nhiên, điều hoàn toàn ngược lại là hầu hết các hóa chất đặc...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các loại chất độc hóa học Các loại chất độc hóa họcTrong các cuộc chiến tranh, ngoài các vũ khí sát thương thông thường, cácbên tham chiến thường sử dụng các loại hóa chất khác nhau nhằm tiêu haokhả năng chiến đấu của đối phương. Các loại hóa chất gây độc đó có tên gọichung là vũ khí hóa học hoặc chất độc quân sự hay rộng hơn là chất độc hóahọc. Nhiều người cho rằng rằng chất độc hóa học giống như chất khí màulục nhạt, có mùi hắc, khó chịu. Tuy nhiên, điều hoàn toàn ngược lại là hầuhết các hóa chất đặc hiệu dùng trong quân sự đều không màu và không mùi.Nhiều chất có mùi đặc sắc, nhưng một số thực ra có mùi thơm. Nhiều chấtđộc hóa học gây phồng rộp, có mùi giống như thảo mộc.Các đặc tính của chất độc dùng trong quân sự: độc tính cao, tác hại nhiềumặt, có khả năng lan tỏa, dễ thâm nhập qua các vật liệu bảo vệ, bền vữngtrước tác động của môi trường, khó tiêu tẩy.Chất độc hóa học được quân Đức dùng lần đầu tiên vào năm 1915 tại Bỉ gâytử vong hàng nghìn người. Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã dùng hàngvạn tấn chất độc da cam gây tác hại lớn và hậu quả lâu dài cho cả con ngườilẫn môi trường, sinh vật. Do các hậu quả nguy hiểm để lại của chất độc quânsự và vũ khí hóa học nên cộng đồng quốc tế đã có các nghị định thưGiơnevơ (1925), hiệp ước Pari (1993) cấm nghiên cứu, sản xuất, tàng trữ vàsử dụng vũ khí hóa học đồng thời yêu cầu tiêu hủy chúng.Hóa học ngày nay xin giới thiệu với các bạn một số chất độc hóa học đãđược sử dụng trong chiến tranh và phân loại các chất độc hóa học.- Dioxin: được tìm thấy trong loại chất thuốc diệt cỏ và làm rụng lá cây đượcquân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Namvới tên gọi là chất da cam. Chất này đã được dùng trong những năm từ 1961đến 1971. Chúng là nguyên nhân gây nên nhiều bệnh như ung thư, dị dạngvà nhiều rối loạn chức năng ở người.- Khí chlorine: khí màu xám lục nhạt với mùi nghẹt thở, khó chịu, tương tựnhư thuốc tẩy chlorine.- 3-quinuclidinyl benzilate (QNB hoặc NATO BZ hoặc Iraqi 15): chất đặchiệu không mùi gây mất năng lực.- Lewisite: chất gây phồng rộp, bốc mùi mạnh hoa móng rồng.- Phosgene và Phosgene oxime hay chất CX: chất gây phồng rộp bốc mùikích thích, dù một phần nào đó có mùi cỏ khô đã cắt hoặc ngô xanh đã hái. Phosgen Phosgene oxime- Sarin: chất tác động lên thần kinh, không mùi, cực độc.Chất độc sarin được sử dụng nhiều trong các cuộc chiến tranh thế giới thứ I và thứ II- VX: có lẽ là chất tác động lên thần kinh có mùi giống như Vicks VapoRybhoặc trái cây hư thối.- Tabun: chất tác động lên thần kinh rất độc, thoảng mùi trái cây dù khôngmùi khi tinh khiết.- Zyklon B: chất tác động vào máu chứ hydrogen cyanide, nổi tiếng trongviệc sử dụng ở các trại tử thần Nazi, có mùi hạnh nhân đắng.- Hydrogen Sulfide: chất tác động vào máu có mùi trứng thối.- Adamsite hoặc DM: chất kiểm soát bạo động, không mùi gây nôn mửa vàhắt hơi.- Khí SC: hơi cay, không mùi.- Sulfur mù tạt (mustard), kể cả khí mustard thường không màu ở dạng tinhkhiết nhưng có màu nâu-vàng nhạt với mùi gợi nhớ của mustard, tỏi, hoặc củcải hăng khi dùng trong chiến tranh.