Thông tin tài liệu:
Để sản xuất axit axetic, người ta có thể đi từ những nguồn nguyên liệu khác nhau, bằng các phương pháp khác nhau như: phương pháp tổng hợp, phương pháp hoá học gỗ, phương pháp vi sinh. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu sử dụng axit axetic ngày càng lớn thì hiện nay hướng chủ yếu để sản xuất axit axetic là bằng phương pháp tổng hợp. Hướng quan trọng nhất để tổng hợp axit axetic là:
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các phương pháp sản xuất axit axetic
Các phương pháp sản xuất axit
axetic
Để sản xuất axit axetic, người ta có thể đi từ những nguồn nguyên liệu khác nhau, bằng
các phương pháp khác nhau như: phương pháp tổng hợp, phương pháp hoá học gỗ,
phương pháp vi sinh.
Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu sử dụng axit axetic ngày càng lớn thì hiện nay hướng chủ
yếu để sản xuất axit axetic là bằng phương pháp tổng hợp. Hướng quan trọng nhất để
tổng hợp axit axetic là:
Tổng hợp metanol và CO ( cacbonyl hoá metanol) .
-
Oxy hoá trực tiếp các HC no.
-
- Quá trình oxy hoá axetaldehyt.
Ngoài ra axit axetic còn thu được khi oxy hoá cacbua hydoro, trong đó axit axetic là một
sản phẩm phụ. Nhưng phương pháp chủ yếu vẫn là đi từ axetaldehyt.
I. Công nghệ tổng hợp axit axetic từ metanol và cacbon monoxyt:
1. Giới thiệu:
Công nghệ sản xuất axit axetic từ metanol và cacbon monoxyt ở nhiệt độ và áp suất cao
được hãng BASF đưa ra từ rất sớm(1913) dựa trên phản ứng:
CH3OH + CO --> CH3COOH , DH298 = - 138,6 KJ/mol
Điều kiện tiến hành khắc nghiệt về nhiệt độ và áp suất cộng với sự có mặt của các chất ăn
mòn mạnh (các hợp chất iodua) đã ngăn cản việc thương mại hoá công nghệ này. Năm
1914, các nghiên cứu của REPPE(BASF) cho thấy rằng các kim loại nhóm VIII xúc tác
có hiệu quả cho quá trình cacbonyl hoá. Điều này dẫn đến việc ra đời và phát triển công
nghệ nhiệt độ và áp suất cao (250oC và 70MPa ) với xúc tác coban iodua. Quá trình này
được BASF đưa vào áp dụng năm 1960 tại Luwig Shafen (CHLB Đức). Công suất ban
đầu là 3.600 tấn/năm. Sau đó tăng lên 10.000 t ấn/năm vào năm 1964 và 35.000 t ấn/năm
vào năm 1970. Năm 1981 công suất đạt 45.000 tấn/năm.
Năm 1966, Borden chemical có khởi động xây dựng một nhà máy sản xuất axit axetic
trên cơ sơ công nghệ BASF tại Geimak ( Bang Louisiana, Mỹ) với năng suất ban đầu là
45.000 tấn/năm sau đó tăng lên 64.000 tấn/năm vào năm 1981.
Năm 1968, Monsanto công bố một khám phá mới. Xúc tác rhodi với hoạt tính và độ chọn
lọc rất cao cho phản ứng cacbonyl hoá metanol(MeOH) thành axit axetic. Metanol có thể
cacbonyl hoá ngay cả ở áp suất thường với hiệu suất chuyển hoá là 99% đối với metanol
và 90% đối với cacbon monoxyd.
Quá trình có sử dụng xúc tác này được áp dụng năm 1970 t ại bang Texas_Mỹ. Công suất
ban đầu là 135.000 tấn/năm, sau đó tăng lên 180.000 t ấn/năm vào năm 1975. Điều kiện
tiến hành quá trình Monsanto mềm hơn so với quá trình BASF (3 MPa và 180oC ) .
2. Bản chất hoá học và điều kiện phản ứng:
Bản chất hoá học của cả hai quá trình của BASF và Monsanto là tương tự nhau nhưng
động học thì khác nhau. Trong cả hai quá trình này có hai dạng xúc tác quan trọng, một
liên quan tới xúc tác cacbonyl kim loại và một liên quan đến chất kích hoạt iodua.
Quá trình BASF sử dụng cacbonyl coban làm xúc tác với chất kích động iodua CoI2 được
dùng để tái sinh tại chỗ Co2(CO)8 và HI. Tốc độ phản ứng phụ thuộc vào áp suất riêng
phần của cacbon monoxit và nồng độ metanol. Hiệu suất thu axit axetic đạt 90% đối với
metanol và 70% đối với cacbon monoxit .
Cơ chế phản ứng như sau:
Phản ứng (1) có thể chuyển hoá CO bằng hơi nước xúc tác là Co2(CO)8 và H2 được tạo ra
bằng cách phân ly phức hydro cacbonyl. Metyl iodua liên tục tấn công bởi tác nhân
nucleophil là ion [Co(CO)4] – ở (4). Gốc iodua làm cho phản ứng dễ dàng hơn vì nó dễ
tách hơn OH –. CH3I phản ứng với phối trí bão hoà d10 Co(CO)4. Quá trình oxy hoá cộng
hợp của CH3I vào Co(CO)4 khó khăn hơn vào [Rh(CO)2I2]. Sản phẩm cộng hợp ban đầu
là một phức 5 phối trí d8 CH3Co(CO)4. Giai đoạn chuyển vị metyl ở (5) xảy ra chậm hơn
so với quá trình xúc tác bởi rhodium. Khi tạo thành hợp chất trung gian axyl của coban,
hợp chất này không bị phân huỷ tạo coban iodua vì iod không phối trí với coban. Các giai
đoạn liên quan đến cơ chế phản ứng dùng xúc tác rhodi được giải thích bởi khả năng
phản ứng của coban thấp hơn của rhodi. Điều này giải thích tại sao nhiệt độ của quá trình
BASF lại cao hơn của quá trình Monsanto. Hơn nữa áp suất riêng phần của cacbon
monoxit cũng phải cao để ổn định phức [Cd(CO)4] – .
Sản phẩm phụ của BASF là CH4, CH3CHO, C2H5OH, C2H5COOH, CO2. Khoảng 3,5%
CH3OH phản ứng mất mát dưới dạng metan, 4,5% dưới dạng sản phẩm phụ lỏng, 2%
dưới dạng khí thải. Khoảng 10% CO nguyên liệu bị biến đổi thành CO2 theo phản ứng
chuyển hoá khí hơi nước.
CO + H2O --> CO2 + H2 (9)
Quá trình Mosanto dùng xúc tác rhodi cacbonyl và chất kích động iodua được tiến hành ở
điều kiện mềm hơn so với quá trình BASF. Hệ xúc tác này cũng không nhạy với hydro
như quá trình BASF, các sản phẩm phụ cũng không đáng kể.
Các nghiên cứu động học của phản ứng cacbonyl hoá metanol bởi rhodi cho thấy rằng:
bậc của phản ứng là bậc 0 với cacbon monoxit và metanol bậc1 với rhodi và chất kích
động iotdua. Nhờ hợp chất khác nhau của rhodi cũng được dùng làm xúc tác hiệu quả ở
150 ữ 200oC. Chất kích động iodua thường dùng là metyl iodua hoặc một số dạng iotdua
khác.
Kết quả khảo sát cho thấ ...