Danh mục

Các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 100.18 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cungMặc dù việc dự đoán người nào bị và người nào không bị ung thư cổ tử cung là điều dường như không thể nhưng chúng ta hoàn toàn có những yếu tố để xác định ai có nguy cơ mắc bệnh này cao hơn. Dù có khá nhiều yếu tố có liên quan trong việc xác định nguy cơ mắc chứng ung thư cổ tử cung nhưng chỉ có một nhân tố duy nhất - siêu vi Human Papilloma Virus ở người hay còn gọi là HPV, là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung Các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung Mặc dù việc dự đoán người nào bị và người nào không bị ung thư cổ tử cung là điều dường như không thể nhưng chúng ta hoàn toàn có những yếu tố để xác định ai có nguy cơ mắc bệnh này cao hơn. Dù có khá nhiều yếu tố có liên quan trong việc xác định nguy cơ mắc chứng ung thư cổ tử cung nhưng chỉ có mộtnhân tố duy nhất - siêu vi Human Papilloma Virus ở người hay còn gọi là HPV, là nhântố gây gia tăng đáng kể nguy cơ bị ung thư cổ tử cung ở phụ nữ.HPV là nhân tố có tính nguy cơ cao nhất với phụ nữ ở bệnh ung thư cổ tử cung. Hầu nhưtất cả những người mắc bệnh này đều có HPV. Tuy nhiên, không phải phụ nữ nào cóHPV cũng sẽ bị ung thư cổ tử cung. Trên thực tế, HPV phổ biến tới mức gần như ai cũngcó thể nhiễm phải chúng vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời. Các bác sỹ thường xétnghiệm HPV ở phụ nữ ngay cả khi không có những biểu hiện rõ rệt nào của bệnh.Các nhân tố gây ảnh hưởng tới quá trình phát triển của chứng bệnh ung thư cổ tử cung:1. Không khám phụ khoa thường niên với các xét nghiệm PapDò tìm triệu chứng ung thư cổ tử cung là một phần trong thủ tục khám phụ khoa.Khám phụ khoa nên được bắt đầu tiến hành với phụ nữ từ năm 21 tuổi và với phụ nữdưới 21 tuổi là thời điểm ba năm sau khi có quan hệ tình dục lần đầu.Xét nghiệm Pap sẽ dò tìm những thay đổi về mặt tế bào có thể gây ra ung thư cổ tử cungchưa được điều trị. Điều may mắn là có rất nhiều các kỹ thuật khác như thủ thuật LEEPvà sinh thiết CONE có thể ngăn chặn những thay đổi tế bào trước khi chứng ung thư cổtử cung bùng phát.Đó cũng là lý do vì sao những phụ nữ không khám phụ khoa hàng năm có nhiều khảnăng mắc ung thư cổ tử cung hơn những người thường xuyên khám định kỳ.2. Có hệ miễn dịch yếuNhững phụ nữ nhiễm HIV phải dùng những loại thuốc gây suy giảm hệ miễn dịch tựnhiên và khả năng chống chọi lại bệnh tật. Nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung của nhữngngười này cũng cao hơn và cần được bác sỹ phụ khoa theo dõi chặt chẽ những biến đổitiền ung thư của tế bào.3. Tuổi tácUng thư cổ tử cung xảy ra nhiều hơn ở những phụ nữ trên 40 tuổi.4. Tiền sử tình dụcNhững phụ nữ có nhiều bạn tình thì cũng có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung cao hơn.Ngay cả khi người phụ nữ không có nhiều bạn tình nhưng nếu chồng/bạn tình của họ cóquan hệ với nhiều phụ nữ trước khi đến với họ thì nguy cơ bị ung thư cổ tử cung củanhững người này cũng cao hơn do nguy cơ nhiễm siêu vi HPV cũng cao hơn.5. Hút thuốcNhiễm HPV và hút thuốc cũng làm tăng nguy cơ bị ung thư cổ tử cung.6. Sử dụng thuốc tránh thai quá lâuNhững phụ nữ dùng thuốc tránh thai dạng viên trong 5 năm hoặc lâu hơn đồng thời đãnhiễm HPV có nhiều nguy cơ bị ung thư cổ tử cung.7. Có nhiều conMột số nghiên cứu cho biết, những phụ nữ nhiễm HPV và có nhiều con cũng có nguy cơmắc ung thư cổ tư cung cao hơn.Một dạng thức hiếm của ung thư cổ tử cung nữa có thể xuất hiện ở những phụ nữ có mẹđã từng dùng thuốc diethylstilbestrol (thường gọi là DES) để phòng sẩy thai trong thờigian mang bầu.Mặc dù hiện nay loại thuốc này không còn được dùng nữa song nếu bạn được sinh ratrong khoảng thời gian từ 1940 - 1971 thì cũng có nguy cơ mắc phải dạng thức ung thưcổ tử cung hiếm này. Nếu lo ngại, bạn nên tham khảo thêm ý kiến của các bác sỹ chuyênkhoa.

Tài liệu được xem nhiều: