Các yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp của sinh viên: Nghiên cứu tình huống sinh viên ngành Bất động sản, trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Số trang: 14
Loại file: pdf
Dung lượng: 483.60 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên đang theo học ngành Bất động sản, tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU). Dữ liệu được thu thập từ 306 sinh viên đang theo học từ Khóa 56 đến Khóa 59. Sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá và hồi quy đa biến, kết quả cho thấy có 05 nhân tố tác động đến ý định khởi nghiệp của sinh viên.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp của sinh viên: Nghiên cứu tình huống sinh viên ngành Bất động sản, trường Đại học Kinh tế Quốc dân CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP CỦA SINH VIÊN: NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG SINH VIÊN NGÀNH BẤT ĐỘNG SẢN, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN Nguyễn Thanh Lân* 1 TÓM TẮT: Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên đang theo học ngành Bất động sản, tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU). Dữ liệu được thu thập từ 306 sinh viên đang theo học từ Khóa 56 đến Khóa 59. Sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá và hồi quy đa biến, kết quả cho thấy có 05 nhân tố tác động đến ý định khởi nghiệp của sinh viên, lần lượt là: (1) Sự tự tin về tính khả thi khởi nghiệp; (2) Sở thích kinh doanh; (3) Ý kiến người xung quanh; (4) Kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh và thị trường; (5) Phương thức học qua thực tế. Các hàm ý của nghiên cứu này đưa ra nhằm đóng góp vào việc cải tiến chương trình giáo dục đại học ngành Bất động sản và NEU và thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp của sinh viên tại cơ sở giáo dục đại học. Từ khóa: Bất động sản; Giáo dục khởi nghiệp; Kinh doanh; Khởi nghiệp; Ý định khởi nghiệp. 1. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU Khởi nghiệp và tinh thần khởi nghiệp được chú trọng và coi như là yếu tố đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm ở nhiều quốc gia (Lee và cộng sự, 2006). Trong những năm qua, đã một số lượng lớn các công trình nghiên cứu đề cập đến chủ đề khởi nghiệp. Đáng chú ý, đã khá nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm hướng nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của một cá nhân. Các nghiên cứu tổng quan cho thấy, về cơ bản, có 03 hướng tiếp cận chủ yếu về các yếu tố cơ bản tác động đến ý định khởi nghiệp của các nhân, đó là: Hoạt động và chương trình đào tạo; yếu tố thuộc về môi trường tác động; yếu tố thuộc về bản thân các nhân (Ngô Thị Thanh Tiên và Cao Quốc Việt, 2016). Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, cơ quan quản lý nhà nước và các bên liên quan đã có nhiều chính sách và chương trình hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp cho các cá nhân. Trong đó, đối tượng cụ thể mà các nhiều Chương trình khởi nghiệp hướng đến các thanh niên, sinh viên, qua đó sẽ phát huy tinh thần sáng tạo, ý chí tự thân, lập nghiệp và vận dụng những kiến thức đã lĩnh hội trong quá trình học tập. Tuy nhiên, bằng chứng thực tiễn cho thấy, ý định khởi nghiệp của sinh viên còn khá thấp, phần lớn sinh viên ra trường có xu hướng đăng ký tuyển dụng vào các doanh nghiệp đang hoạt động. Bên cạnh đó, hoạt động khởi nghiệp ở nước ta thời gian qua, được đánh giá mang tính phong trào, thiếu thống nhất (Nguyễn Thị Thu Hà, 2018). Do đó, việc tìm hiểu thực trạng ý định khởi nghiệp và đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp của sinh viên là vấn đề cấp bách, cần quan tâm xem xét. Về mặt lý luận, ở Việt Nam, đã một số ít các nghiên cứu thực nghiệm đề cập, phân tích và so sánh ý định khởi nghiệp của sinh viên, cụ thể như các nhóm đối tượng sinh viên theo học khối ngành kỹ thuật và kinh tế, quản trị kinh doanh (Nguyễn Thu Thủy, 2015; Bùi Huỳnh Tuấn Duy và cộng sự, 2011), sinh viên theo học tại một cơ sở giáo dục đào tạo cụ thể (Nguyễn Thanh Hùng và Nguyễn Thị Kim Pha, 2016) hoặc các sinh viên đã tốt nghiệp (Phan Anh Tú và Nguyễn Thanh Sơn, 2015). Đáng chú ý, kết quả mà các nghiên * Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, 207 đường Giải Phóng, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 1227 cứu rút ra khá thống nhất trong việc khẳng định vai trò tác động của các chương trình đào tạo đến ý định khởi nghiệp của sinh viên. Tuy nhiên, mức độ tác động của chương trình đào tạo đến nhận thức và ý định khởi nghiệp của sinh viên là khác nhau, do vậy cần có thêm những nghiên cứu (Collins và cộng sự, 2004; Wu, S., & Wu, L., 2008). Ngoài ra, cho đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá về ý định khởi nghiệp của sinh viên theo học lĩnh vực (ngành hoặc chuyên ngành) bất động sản (BĐS). Đây là khoảng trống về bối cảnh nghiên cứu tiềm năng để tiếp tục thực hiện tiếp các nghiên cứu liên quan đến chủ đề này. Do bởi, BĐS là một lĩnh vực mới ra đời ở Việt Nam (chính thức từ năm 1993) và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (Nguyễn Thanh Lân, 2015). Các chương trình đào bậc đại học về lĩnh vực này ở nước ta còn khá mới với sự ra đời chương trình đào tạo đầu tiên tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) vào năm 2002 (tên chương trình đào tạo là chuyên ngành Kinh doanh BĐS). Hiện tại, trên cả nước đã có một số các trường đại học mở ngành đào tạo BĐS. Ngoài ra, hoạt động kinh doanh BĐS bên cạnh điểm chung về hoạt động kinh doanh nói chung, cũng có những đặc trưng riêng về lĩnh vực BĐS (Hoàng Văn Cường, 2017). Chính vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu các yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp của các sinh viên theo học ngành BĐS, tại địa bàn nghiên cứu là NEU. 2. CỞ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lý thuyết Khởi nghiệp theo cách hiểu thông thường là việc bắt động công việc kinh doanh mới. Với nhiều cá nhân, khởi nghiệp đơn thuần là quá trình theo đổi những quyết định mạo hiểm trong tương lai. Ở cấp độ doanh nghiệp, khái niệm khởi nghiệp thường ám chỉ và mang hàm ý đối các công ty đang trong giai đoạn bắt đầu kinh doanh - bao gồm một loạt những hoạt động tác nghiệp liên quan đến quá trình thiết kế, tổ chức nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ dưới điều kiện không chắc chắn. Trong nghiên cứu học thuật, khởi nghiệp là một khái niệm đa chiều. Tuy vậy, về cơ bản, ở góc độ cá nhân, có thể cắt nghĩa, khởi nghiệp là việc một cá nhân [một mình hoặc cùng người khác (nhóm)] tận dụng những cơ hội thị trường tạo dựng m ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp của sinh viên: Nghiên cứu tình huống sinh viên ngành Bất động sản, trường Đại học Kinh tế Quốc dân CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP CỦA SINH VIÊN: NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG SINH VIÊN NGÀNH BẤT ĐỘNG SẢN, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN Nguyễn Thanh Lân* 1 TÓM TẮT: Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên đang theo học ngành Bất động sản, tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU). Dữ liệu được thu thập từ 306 sinh viên đang theo học từ Khóa 56 đến Khóa 59. Sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá và hồi quy đa biến, kết quả cho thấy có 05 nhân tố tác động đến ý định khởi nghiệp của sinh viên, lần lượt là: (1) Sự tự tin về tính khả thi khởi nghiệp; (2) Sở thích kinh doanh; (3) Ý kiến người xung quanh; (4) Kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh và thị trường; (5) Phương thức học qua thực tế. Các hàm ý của nghiên cứu này đưa ra nhằm đóng góp vào việc cải tiến chương trình giáo dục đại học ngành Bất động sản và NEU và thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp của sinh viên tại cơ sở giáo dục đại học. Từ khóa: Bất động sản; Giáo dục khởi nghiệp; Kinh doanh; Khởi nghiệp; Ý định khởi nghiệp. 1. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU Khởi nghiệp và tinh thần khởi nghiệp được chú trọng và coi như là yếu tố đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm ở nhiều quốc gia (Lee và cộng sự, 2006). Trong những năm qua, đã một số lượng lớn các công trình nghiên cứu đề cập đến chủ đề khởi nghiệp. Đáng chú ý, đã khá nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm hướng nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của một cá nhân. Các nghiên cứu tổng quan cho thấy, về cơ bản, có 03 hướng tiếp cận chủ yếu về các yếu tố cơ bản tác động đến ý định khởi nghiệp của các nhân, đó là: Hoạt động và chương trình đào tạo; yếu tố thuộc về môi trường tác động; yếu tố thuộc về bản thân các nhân (Ngô Thị Thanh Tiên và Cao Quốc Việt, 2016). Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, cơ quan quản lý nhà nước và các bên liên quan đã có nhiều chính sách và chương trình hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp cho các cá nhân. Trong đó, đối tượng cụ thể mà các nhiều Chương trình khởi nghiệp hướng đến các thanh niên, sinh viên, qua đó sẽ phát huy tinh thần sáng tạo, ý chí tự thân, lập nghiệp và vận dụng những kiến thức đã lĩnh hội trong quá trình học tập. Tuy nhiên, bằng chứng thực tiễn cho thấy, ý định khởi nghiệp của sinh viên còn khá thấp, phần lớn sinh viên ra trường có xu hướng đăng ký tuyển dụng vào các doanh nghiệp đang hoạt động. Bên cạnh đó, hoạt động khởi nghiệp ở nước ta thời gian qua, được đánh giá mang tính phong trào, thiếu thống nhất (Nguyễn Thị Thu Hà, 2018). Do đó, việc tìm hiểu thực trạng ý định khởi nghiệp và đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp của sinh viên là vấn đề cấp bách, cần quan tâm xem xét. Về mặt lý luận, ở Việt Nam, đã một số ít các nghiên cứu thực nghiệm đề cập, phân tích và so sánh ý định khởi nghiệp của sinh viên, cụ thể như các nhóm đối tượng sinh viên theo học khối ngành kỹ thuật và kinh tế, quản trị kinh doanh (Nguyễn Thu Thủy, 2015; Bùi Huỳnh Tuấn Duy và cộng sự, 2011), sinh viên theo học tại một cơ sở giáo dục đào tạo cụ thể (Nguyễn Thanh Hùng và Nguyễn Thị Kim Pha, 2016) hoặc các sinh viên đã tốt nghiệp (Phan Anh Tú và Nguyễn Thanh Sơn, 2015). Đáng chú ý, kết quả mà các nghiên * Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, 207 đường Giải Phóng, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 1227 cứu rút ra khá thống nhất trong việc khẳng định vai trò tác động của các chương trình đào tạo đến ý định khởi nghiệp của sinh viên. Tuy nhiên, mức độ tác động của chương trình đào tạo đến nhận thức và ý định khởi nghiệp của sinh viên là khác nhau, do vậy cần có thêm những nghiên cứu (Collins và cộng sự, 2004; Wu, S., & Wu, L., 2008). Ngoài ra, cho đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá về ý định khởi nghiệp của sinh viên theo học lĩnh vực (ngành hoặc chuyên ngành) bất động sản (BĐS). Đây là khoảng trống về bối cảnh nghiên cứu tiềm năng để tiếp tục thực hiện tiếp các nghiên cứu liên quan đến chủ đề này. Do bởi, BĐS là một lĩnh vực mới ra đời ở Việt Nam (chính thức từ năm 1993) và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (Nguyễn Thanh Lân, 2015). Các chương trình đào bậc đại học về lĩnh vực này ở nước ta còn khá mới với sự ra đời chương trình đào tạo đầu tiên tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) vào năm 2002 (tên chương trình đào tạo là chuyên ngành Kinh doanh BĐS). Hiện tại, trên cả nước đã có một số các trường đại học mở ngành đào tạo BĐS. Ngoài ra, hoạt động kinh doanh BĐS bên cạnh điểm chung về hoạt động kinh doanh nói chung, cũng có những đặc trưng riêng về lĩnh vực BĐS (Hoàng Văn Cường, 2017). Chính vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu các yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp của các sinh viên theo học ngành BĐS, tại địa bàn nghiên cứu là NEU. 2. CỞ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lý thuyết Khởi nghiệp theo cách hiểu thông thường là việc bắt động công việc kinh doanh mới. Với nhiều cá nhân, khởi nghiệp đơn thuần là quá trình theo đổi những quyết định mạo hiểm trong tương lai. Ở cấp độ doanh nghiệp, khái niệm khởi nghiệp thường ám chỉ và mang hàm ý đối các công ty đang trong giai đoạn bắt đầu kinh doanh - bao gồm một loạt những hoạt động tác nghiệp liên quan đến quá trình thiết kế, tổ chức nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ dưới điều kiện không chắc chắn. Trong nghiên cứu học thuật, khởi nghiệp là một khái niệm đa chiều. Tuy vậy, về cơ bản, ở góc độ cá nhân, có thể cắt nghĩa, khởi nghiệp là việc một cá nhân [một mình hoặc cùng người khác (nhóm)] tận dụng những cơ hội thị trường tạo dựng m ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Bất động sản Giáo dục khởi nghiệp Ý định khởi nghiệp Tinh thần khởi nghiệp của sinh viên Cộng đồng khởi nghiệpGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Đầu tư và kinh doanh bất động sản: Phần 2
208 trang 292 5 0 -
88 trang 237 0 0
-
Pháp luật kinh doanh bất động sản
47 trang 212 4 0 -
3 trang 175 0 0
-
Xây dựng cơ sở dữ liệu bất động sản phục vụ quản lý bất động sản
11 trang 171 1 0 -
Bài giảng Thị trường bất động sản - Trần Tiến Khai
123 trang 165 4 0 -
10 trang 122 0 0
-
21 trang 114 0 0
-
7 trang 106 0 0
-
Chuyên đề 2: Quy trình và kỹ năng môi giới bất động sản
42 trang 82 0 0