Cảm nhận bài thơ Vận nước (Quốc tộ) của Đỗ Pháp Thuận để làm sáng tỏ ý kiến sau : Bài thơ có ý nghĩa như một tuyên ngôn hoà bình, ngắn gọn'
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 164.34 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Khát vọng yêu nước không chỉ khẳng định trước những biến cố, những sự kiện lịch sử cùng với sự ra đời của tuyên ngôn độc lập trong “Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt mà còn được thể hiện trong những bản tuyên ngôn hoà bình ngắn gọn. Bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) của Đỗ Thuận mang ý nghĩa thời đại như thế. “Vận nước” (Quốc tộ) được viết khi Đỗ Pháp Thuận trả lời kế sách “bình thiên hạ” với Lê Đại Hành sau năm 981. Bài thơ chỉ có 4 câu hàm súc, cô...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cảm nhận bài thơ Vận nước (Quốc tộ) của Đỗ Pháp Thuận để làm sáng tỏ ý kiến sau : "Bài thơ có ý nghĩa như một tuyên ngôn hoà bình, ngắn gọn”Cảm nhận bài thơ Vận nước (Quốc tộ) của Đỗ Pháp Thuận để làm sáng tỏ ý kiến sau : Bài thơ có ý nghĩa như một tuyên ngôn hoà bình, ngắn gọn”. Khát vọng yêu nước không chỉ khẳng định trước những biến cố, những sự kiệnlịch sử cùng với sự ra đời của tuyên ngôn độc lập trong “Nam quốc sơn hà của LýThường Kiệt mà còn được thể hiện trong những bản tuyên ngôn hoà bình ngắn gọn.Bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) của Đỗ Thuận mang ý nghĩa thời đại như thế. “Vận nước” (Quốc tộ) được viết khi Đỗ Pháp Thuận trả lời kế sách “bình thiênhạ” với Lê Đại Hành sau năm 981. Bài thơ chỉ có 4 câu hàm súc, cô đọng nói đượcnhững khát vọng của một thời : khát vọng hoà bình - hạnh phúc trong đó có việc ứngxử của nhà vua với muôn dân. Hai câu thơ mở đầu nhà thơ viết : Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lí thái bình (Vận nước như mây quấn Trời Nam mở thái bình) Dùng nghệ thuật so sánh : Quốc tộ như đằng lạc. “Quốc tộ” là việc nước. Nóiđến nước là nói đến “việc nước” ta thường nghĩ đến chất trí tuệ, sự lựa chọn. Nghệthuật so sánh làm cho câu thơ đanh thép, rắn rỏi. Việc nước có ý nghĩa khái quát nhưđối nhân xử thế, đối nội, đối ngoại với các nước láng giềng, chăm sóc muôn dân cho“sâu rễ bền gốc”, củng cố quốc phòng vv... thế mà được so sánh với hình ảnh thật cụthể “như mây quấn”. Ý nghĩa của nó chẳng phải chỉ sự vững bền, sự dài lâu, phát triểnthịnh vượng. Nhưng cũng hàm ý còn nhiều điều cần phải tháo gỡ ? Tâm trạng của tác giả là tiếng nói của mọi người mọi thời. Yêu nước, mongmuốn đất nước luôn sống trong cảnh thái bình. Câu thơ “Nam thiên lí thái bình” thật trang trọng. “Nam thiên lí” là “ở góc trờiNam” khát vọng của Pháp Thuận nói đến chữ “Thái Bình”. Lúc bấy giờ thái bình cónghĩa là hoà bình. Nhà thơ trả lời với Lê Đại Hành như vậy chính là tuyên ngôn ngắngọn về hoà bình, về mục đích của muôn dân ; cách nói qua nghệ thuật so sánh thật cụthể và dễ hiểu và cũng thật sâu sắc. Đất nước muốn bền vững, phát triển thịnh vượng,dài lâu, muốn tháo gỡ rối ren, loạn lạc, ngăn kẻ thù bên ngoài, dẹp yên bọn quấy rốibên trong...chỉ cần hai chữ Thái bình. Đó chính là khát vọng được khẳng định từ đây,từ buổi đầu mở nền độc lập dân tộc, tiếp theo được minh chứng bằng lịch sử dân tộcmột ngàn năm. Ví như Trần Quang Khải, sau cuộc kháng chiến chống quân Mông -Nguyên, phò vua Trần về lại kinh đô Thăng Long cũng nêu phương châm Thái bìnhnên gắng sức / Non nước ấy ngàn thu. Trương Hán Siêu sau chiến tranh trở lại BạchĐằng Giang, chiến trường xưa, trong cảnh Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô,buồn vì cảnh thảm, bài ca cất lên cuối cùng là bài ca hoà bình : Giặc tan muôn thuở thăng bình Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo cũng đã tuyên bố về chủ trương này khichấp nhận sự đầu hành của quân xâm lược Minh, cấp ngựa, thuyền cho chúng rút quânvề nước : Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thật lòng / Ta lấy toàn quân là hơn đểnhân dân nghỉ sức. Đến thời hiện đại, Tuyên ngôn độc lập hay Lời kêu gọi khángchiến của nước Việt Nam mới đều xuất phát từ nguyện vọng Chúng ta muốn hòabình, Trời Nam mở cõi thái bình. Vẫn mang tính chất của cảm hứng yêu nước nhưng không phải trong những sựkiện lịch sử trọng đại của dân tộc mà “Vận nước” được đặt trong hoàn cảnh cụ thể khiđất nước bình yên, câu thơ không nặng giáo huấn đạo đức của “Văn dĩ tải đạo” (Vănchương là con thuyền chở đạo đức) mà ngắn gọn như một chân lí. Xuất phát nàychẳng phải là tình yêu đất nước sâu sắc đó sao ? Nếu hai câu thơ đầu là tuyên ngôn là mục đích, là khát vọng hoà bình thì haicâu thơ sau là giải pháp, là hành động thể hiện trách nhiệm của nhà vua với muôn dân. “Vô vi cư điên cai Xứ xứ tức đao binh”. (Vô vi trên điện các Chốn chốn tắt đao binh ) Hai chữ “vô vi” mang rõ bản chất tư tưởng Lão Tử. Đó chính là chỉ thái độsống phù hợp với tự nhiên, không trái với qui luật tự nhiên. Trong bài thơ này “vô vi”còn mang ý nghĩa khuyên con người hành động hợp với lẽ tự nhiên. Không nên hiểu “vô vi” là không làm gì. Tại sao nhà vua lại “Vô vi” ? Hànhđộng của nhà vua là phải tu nhân tích đức, phải có sức cảm hoá dân mới được nhândân khâm phục, noi gương làm theo. Câu thơ chỉ rõ vai trò của người lãnh đạo phảilấy nhân cách phẩm chất của mình để làm “Gương báu răn mình”. Đức sáng, tâmtrong mới qui tụ được sức dân. Vô vi do vậy là không nhũng nhiễu đời sống nhân dân,tự mình gây hấn...để cho nhân dân yên hưởng thái bình. Cụm từ “cư điện các” hiểu đa nghĩa : “cư” là “ở” nhưng có thể hiểu là cư xử.Nơi điện các, triều đình, cung điện nhà vua phải giữ mình nhưng như vậy không phảilà quan liêu, mệnh lệnh với dân. Nhà vua phải hiểu được dân, ứng xử ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cảm nhận bài thơ Vận nước (Quốc tộ) của Đỗ Pháp Thuận để làm sáng tỏ ý kiến sau : "Bài thơ có ý nghĩa như một tuyên ngôn hoà bình, ngắn gọn”Cảm nhận bài thơ Vận nước (Quốc tộ) của Đỗ Pháp Thuận để làm sáng tỏ ý kiến sau : Bài thơ có ý nghĩa như một tuyên ngôn hoà bình, ngắn gọn”. Khát vọng yêu nước không chỉ khẳng định trước những biến cố, những sự kiệnlịch sử cùng với sự ra đời của tuyên ngôn độc lập trong “Nam quốc sơn hà của LýThường Kiệt mà còn được thể hiện trong những bản tuyên ngôn hoà bình ngắn gọn.Bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) của Đỗ Thuận mang ý nghĩa thời đại như thế. “Vận nước” (Quốc tộ) được viết khi Đỗ Pháp Thuận trả lời kế sách “bình thiênhạ” với Lê Đại Hành sau năm 981. Bài thơ chỉ có 4 câu hàm súc, cô đọng nói đượcnhững khát vọng của một thời : khát vọng hoà bình - hạnh phúc trong đó có việc ứngxử của nhà vua với muôn dân. Hai câu thơ mở đầu nhà thơ viết : Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lí thái bình (Vận nước như mây quấn Trời Nam mở thái bình) Dùng nghệ thuật so sánh : Quốc tộ như đằng lạc. “Quốc tộ” là việc nước. Nóiđến nước là nói đến “việc nước” ta thường nghĩ đến chất trí tuệ, sự lựa chọn. Nghệthuật so sánh làm cho câu thơ đanh thép, rắn rỏi. Việc nước có ý nghĩa khái quát nhưđối nhân xử thế, đối nội, đối ngoại với các nước láng giềng, chăm sóc muôn dân cho“sâu rễ bền gốc”, củng cố quốc phòng vv... thế mà được so sánh với hình ảnh thật cụthể “như mây quấn”. Ý nghĩa của nó chẳng phải chỉ sự vững bền, sự dài lâu, phát triểnthịnh vượng. Nhưng cũng hàm ý còn nhiều điều cần phải tháo gỡ ? Tâm trạng của tác giả là tiếng nói của mọi người mọi thời. Yêu nước, mongmuốn đất nước luôn sống trong cảnh thái bình. Câu thơ “Nam thiên lí thái bình” thật trang trọng. “Nam thiên lí” là “ở góc trờiNam” khát vọng của Pháp Thuận nói đến chữ “Thái Bình”. Lúc bấy giờ thái bình cónghĩa là hoà bình. Nhà thơ trả lời với Lê Đại Hành như vậy chính là tuyên ngôn ngắngọn về hoà bình, về mục đích của muôn dân ; cách nói qua nghệ thuật so sánh thật cụthể và dễ hiểu và cũng thật sâu sắc. Đất nước muốn bền vững, phát triển thịnh vượng,dài lâu, muốn tháo gỡ rối ren, loạn lạc, ngăn kẻ thù bên ngoài, dẹp yên bọn quấy rốibên trong...chỉ cần hai chữ Thái bình. Đó chính là khát vọng được khẳng định từ đây,từ buổi đầu mở nền độc lập dân tộc, tiếp theo được minh chứng bằng lịch sử dân tộcmột ngàn năm. Ví như Trần Quang Khải, sau cuộc kháng chiến chống quân Mông -Nguyên, phò vua Trần về lại kinh đô Thăng Long cũng nêu phương châm Thái bìnhnên gắng sức / Non nước ấy ngàn thu. Trương Hán Siêu sau chiến tranh trở lại BạchĐằng Giang, chiến trường xưa, trong cảnh Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô,buồn vì cảnh thảm, bài ca cất lên cuối cùng là bài ca hoà bình : Giặc tan muôn thuở thăng bình Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo cũng đã tuyên bố về chủ trương này khichấp nhận sự đầu hành của quân xâm lược Minh, cấp ngựa, thuyền cho chúng rút quânvề nước : Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thật lòng / Ta lấy toàn quân là hơn đểnhân dân nghỉ sức. Đến thời hiện đại, Tuyên ngôn độc lập hay Lời kêu gọi khángchiến của nước Việt Nam mới đều xuất phát từ nguyện vọng Chúng ta muốn hòabình, Trời Nam mở cõi thái bình. Vẫn mang tính chất của cảm hứng yêu nước nhưng không phải trong những sựkiện lịch sử trọng đại của dân tộc mà “Vận nước” được đặt trong hoàn cảnh cụ thể khiđất nước bình yên, câu thơ không nặng giáo huấn đạo đức của “Văn dĩ tải đạo” (Vănchương là con thuyền chở đạo đức) mà ngắn gọn như một chân lí. Xuất phát nàychẳng phải là tình yêu đất nước sâu sắc đó sao ? Nếu hai câu thơ đầu là tuyên ngôn là mục đích, là khát vọng hoà bình thì haicâu thơ sau là giải pháp, là hành động thể hiện trách nhiệm của nhà vua với muôn dân. “Vô vi cư điên cai Xứ xứ tức đao binh”. (Vô vi trên điện các Chốn chốn tắt đao binh ) Hai chữ “vô vi” mang rõ bản chất tư tưởng Lão Tử. Đó chính là chỉ thái độsống phù hợp với tự nhiên, không trái với qui luật tự nhiên. Trong bài thơ này “vô vi”còn mang ý nghĩa khuyên con người hành động hợp với lẽ tự nhiên. Không nên hiểu “vô vi” là không làm gì. Tại sao nhà vua lại “Vô vi” ? Hànhđộng của nhà vua là phải tu nhân tích đức, phải có sức cảm hoá dân mới được nhândân khâm phục, noi gương làm theo. Câu thơ chỉ rõ vai trò của người lãnh đạo phảilấy nhân cách phẩm chất của mình để làm “Gương báu răn mình”. Đức sáng, tâmtrong mới qui tụ được sức dân. Vô vi do vậy là không nhũng nhiễu đời sống nhân dân,tự mình gây hấn...để cho nhân dân yên hưởng thái bình. Cụm từ “cư điện các” hiểu đa nghĩa : “cư” là “ở” nhưng có thể hiểu là cư xử.Nơi điện các, triều đình, cung điện nhà vua phải giữ mình nhưng như vậy không phảilà quan liêu, mệnh lệnh với dân. Nhà vua phải hiểu được dân, ứng xử ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Đỗ Pháp Thuận bài thơ Vận nước ngữ văn phổ thông văn mẫu lớp 10 tài liệu lớp 10 ôn thi văn lớp 10 bài giảng văn lớp 10Tài liệu liên quan:
-
Hãy tưởng tượng và trò chuyện với người lính lái xe trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính
3 trang 69 0 0 -
Bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ qua một số tác phẩm văn học trung đại đã học
6 trang 58 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Phân tích truyện Tam đại con gà
9 trang 43 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Nghị luận về lòng yêu thương con người
7 trang 36 0 0 -
Kiến thức cơ bản bài Mây và sóng - Ta-go
6 trang 36 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
27 trang 32 0 0 -
Kết Thúc Có Hậu Truyện Tấm Cám...
4 trang 32 0 0 -
Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
10 trang 30 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Phân tích Hình tượng Rama trong Ramayana
7 trang 30 0 0 -
Phân tích tâm sự thầm kín của Nguyễn Duy qua bài thơ Ánh trăng
8 trang 29 0 0