Nhân cách - hồn thơ thi hào Nguyễn Du (1765-1820) đã tìm được sự đồng vọng lớn lao và tình cảm đặc biệt ở Thi Thánh Đỗ Phủ (712-770).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CẢM THỨC CÔ ĐƠN TRONG THƠ ĐỖ PHỦ VÀ THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU_1 CẢM THỨC CÔ ĐƠN TRONG THƠ ĐỖ PHỦ VÀ THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DUNhân cách - hồn thơ thi hào Nguyễn Du (1765-1820) đã tìm được sựđồng vọng lớn lao và tình cảm đặc biệt ở Thi Thánh Đỗ Phủ (712-770).Lệch pha thời gian hơn mười thế kỉ nhưng thơ ca của họ có khá nhiềunét tương đồng. Bài viết đề cập đến những tương đồng khác biệt trongcảm thức cô đơn để thấy rõ hơn sự độc đáo của cái tôi trữ tình trongsáng tác của mỗi nhà thơ.1. Nghiên cứu Đỗ Phủ có thể thấy những ám ảnh về nỗi cô độc dườngnhư đã được báo trước từ thuở nhà thơ còn thiếu thời đến lúc nhắmmắt xuôi tay. Bàng bạc trong thơ ca ông là nỗi lòng cô đơn bi tráng củamột con người khát khao đi tìm lẽ sống đích thực của đời mình. Trên cáinền trầm lắng của sự cô độc, ứng với mỗi giai đoạn, nỗi cô đơn của nhàthơ có những sắc thái biểu hiện khác nhau.Thời kì đầu, cảm hứng cô đơn trong thơ Đỗ Phủ không phải của mộtngười thường mà là của một bậc kì tài:Cửu linh thư đại tự,Hữu tác thành nhất nang(Tráng du)(Chín tuổi đã viết được chữ lớn,Văn chương đã làm ra một phong cách riêng.)Năm hai lăm tuổi, đến thăm cha đang giữ chức Tư mã ở Duyện Châu,Đỗ Phủ bước lên lầu cao dõi mắt nhìn không gian rộng lớn: núi Thái Sơnnối liền với biển cả trong đám mây nổi, cánh đồng Thanh Châu, Từ Châubằng phẳng, trơ trọi, bát ngát... Trong cái bơ vơ trước ngoại cảnh, quákhứ - tương lai dồn dập hiện về, thi nhân đã viết nên những câu thơtuyệt bút để diễn tả cái cô độc bi thảm của lòng mình:Tòng lai đa cổ ý,Lâm diễu độc trù trừ.(Đăng Duyện Châu thành lâu)((Nơi này) xưa nay nhiều ý vị cổ kimĐứng ngắm mà lòng (cảm khái) dùng dằng.)Giấc mộng tiến thân bằng con đường thi cử không thành. Cuộc đời nhàthơ bắt đầu những chuỗi ngày lữ thứ phiêu linh, ăn nhờ ở đậu quêngười. Lưu vong trong chiến loạn, Đỗ Phủ sống phiêu bạt cô đơn nơiđất khách quê người. Nỗi lòng sầu xứ, tâm trạng lưu đày, tâm thế bithương cùng lúc đã phả vào thơ ông những hơi thở thê lương, chuachát của một con người khát khao dấn thân lập chí giúp đời nhưng bịgạt bỏ ra ngoài xã hội. Giờ đây nỗi cô độc không còn là của người trẻtuổi tài cao kiêu ngạo, lạ lùng như ngày trước mà là của con người bấtđắc chí đã nếm trải hết những thất bại, đau thương, đói khổ trong đời.Từ giai đoạn này trở đi, trong thơ Đỗ Phủ xuất hiện hình ảnh một ônggià côi quạnh thường lui về ở ẩn xóm bên sông, lấy cảnh tịch mịch, ubuồn để sống nốt những ngày cuối đời:Giang thôn độc quy xử,Tịch mịch dưỡng tàn sinh.(Phụng tế dịch trùng tống Nghiêm công tứ vận)(Nay một mình về ở ẩn xóm bên sông,Lấy cảnh vắng nuôi cuộc đời còn lại.)thường ngắm trăng một mình mà lòng não nề đau đớn:Thu nguyệt nhưng viên dạ,Giang thôn độc lão thôn.(Thập thất dạ đối nguyệt)(Đêm có vầng trăng thu vẫn tròn,Thân già một mình ở xóm bên sông.)Ông thường ngủ một mình dưới trăng thu trong vắt, thấu lạnh hồnngười:Thanh thu mạc phủ tỉnh ngô hàn,Độc túc giang thành lạp cự tàn.(Túc phủ)(Trời thu trong, cây ngô bên giếng mạc phủ lạnh lùng,Một mình ngủ lại ở thành sông, ngọn nến lụi tắt.)Dưới ánh trăng lạnh lẽo, úa vàng tàn tạ, thi nhân thấy mình nhỏ bé, lẻloi, đơn độc hơn bao giờ hết:Phiêu phiêu hà sở tự?Thiên địa nhất sa âu.(Lữ dạ thư hoài)(Thân mình chơi vơi giống cái gì?Giống chim âu trên bãi cát trong khoảng trời đất)Với dự cảm nếu gặp thời Khai Nguyên vua sáng tôi hiền đường mâyrộng thênh thênh cử bộ thì Đỗ Phủ đâu phải rơi vào cảnh nhất sa âumà khóc thương cho thân phận mình:Hải nội phong trần chư đệ cách,Thiên nhai thế lệ nhất thân dao.(Dã vọng)(Trong nước đang cơn gió bụi đàn em xa cách,Một thân nơi chân trời xa thẳm luống những sụt sùi)Thi nhân cảm nhận nỗi cô độc của mình cũng là nỗi cô độc của Tam LưĐại phu Khuất Nguyên ngày trước:Phấn độc sử kỳ sự,Ký quýnh độc nhi bất như quân hề.(Sở từ)(Ở một mình nơi đất lạ,Đã cô độc lại lẻ loi)Ngẫm lại thấy mình loay hoay trong cảnh cô độc giữa đất trời vô tình,nhà thơ càng cảm thương cho thân phận mình.Nỗi đau vì quốc phá, gia vong, vì thân thế, lý tưởng sụp đổ cứ chồngchất lên tấm thân già yếu nhiều bệnh tật đã khiến tình cảm trong thơĐỗ Phủ về giai đoạn cuối đời trở nên tiêu sái, âm điệu thê lương. Nỗikhổ vật chất và bi kịch tinh thần cứ đè nặng lên đôi chân yếu, mắt mờ,tóc bạc để rồi một ngày kia nhà thơ bước lên đài cao đặt một mái tócbạc giữa đất trời mênh mông, bát ngát:Vạn lý bi thu thường tác khách,Bách niên đa bệnh độc đăng đài.(Đăng cao)(Thương cho mùa thu muôn dặm cứ phải xa nhà,Đau ốm suốt cuộc đời, một mình lên đài cao.)Câu thơ như tổng kết mọi nỗi truân chuyên, uất hận nhuốm màu bithương cả một đời người. Cũng là đăng cao nhưng con người đăngcao trong giai đoạn đầu Thịnh Đường của Trần Tử Ngang có tư thế hiênngang, hào phóng, mang chiều kích vũ trụ đầu đội trời, chân đạp đất,còn con người trong giai đoạn cuối Thịnh Đường của Đỗ Phủ lại nhiềutrầm uất, bi thương. ...