Danh mục

“Căn cứ địa” của tư duy

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 127.35 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các nhà nghiên cứu của Viện Thần kinh học thuộc Trường đại học London đã có thể xác định xem những ký ức của chúng ta được bảo quản ở khu vực nào của đại não và chúng được ghi lại ở đó ra sao. Giáo sư Eleonor Mawir đã kể lại cuộc thí nghiệm như sau: “Cơ sở của công trình nghiên cứu của chúng tôi là phương pháp "đèn chiếu" (projecteur), khi chúng tôi với sự trợ giúp của máy Xquang cắt lớp lần đầu tiên có thể xác định một cách cực kỳ chính xác tới...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
“Căn cứ địa” của tư duy “Căn cứ địa” của tư duyCác nhà nghiên cứu của Viện Thần kinh học thuộc Trường đạihọc London đã có thể xác định xem những ký ức của chúng tađược bảo quản ở khu vực nào của đại não và chúng được ghilại ở đó ra sao.Giáo sư Eleonor Mawir đã kể lại cuộc thí nghiệm như sau: “Cơ sởcủa công trình nghiên cứu của chúng tôi là phương pháp đènchiếu (projecteur), khi chúng tôi với sự trợ giúp của máy Xquangcắt lớp lần đầu tiên có thể xác định một cách cực kỳ chính xác tớimicron xem bộ não của chúng ta bảo quản thông tin chính ở nhữngngăn nào. Bản thân cuộc thí nghiệm bao gồm ba giai đoạn:Trong giai đoạn thứ nhất, chúng tôi áp dụng phương pháp cố địnhnhững ký ức tản mạn khác nhau với sự trợ giúp của hai cuốn phimngắn mà chúng tôi chiếu cho những người được làm thí nghiệmxem. Đó là hai cuốn phim thông thường nhất kể lại những cảnhsinh hoạt chẳng có gì đáng chú ý của cuộc sống phố phường.Trong một cuốn phim, ta thấy một người đàn bà mặc áo khoácxanh sau khi uống cà phê liền ném cái cốc giấy đã qua sử dụng vàothùng rác. Trong một cuốn phim khác là một người đàn bà mặc áokhoác đỏ, thả bức thư vào hòm thư. Trong khi xem, chúng tôi kếtnối hai người tình nguyện với máy Xquang cắt lớp, sau đó yêu cầuhọ nhớ lại và miêu tả thật tỉ mỉ hai cuốn phim ngắn vừa được xem,còn chính chúng tôi vào thời điểm đó quan sát các vùng hoạt tínhcủa não. Với mỗi một người tình nguyện, chúng tôi tiến hànhkhông dưới 100 lượt chiếu bởi lẽ người được làm thí nghiệm mỗilần đều cần nhớ lại không phải cốt truyện của cuốn phim, mà làmột chi tiết tiêu biểu nào đó. Chẳng hạn anh ta phải nhớ lại vàmiêu tả kiểu áo khoác. Hoặc hình dáng và màu sắc của hòm thư.Hoặc hình thù bức thư. Hoặc màu sắc hoa văn trên chiếc cốc giấy.Còn chúng tôi thì với sự trợ giúp của máy Xquang cắt lớp xemnhững tế bào thần kinh nào thể hiện hoạt tính mạnh nhất, nhữngquy luật nào được theo dõi trong bức tranh chung về sự kích thíchcủa các tế bào thần kinh. Mô hình 3D của hippocampe.Tiếp theo là giai đoạn thứ hai - xây dựng mô hình không gian 3Dcủa hippocampe (thuật ngữ chỉ khu vực của đại não nằm ở phầngiữa thùy thái dương) và của những cấu trúc bao quanh nó. Chínhphần bên phải và phần bên trái của hippocampe được sử dụng đểbảo quản và xử lý thông tin chi tiết vốn rất cần để giải quyết nhữngnhiệm vụ đơn giản nhất. Chẳng hạn, nếu không có hippocampeđược chức năng hóa hoàn toàn thì con người bị mất phươnghướng, họ có thể không nhớ là họ đã ở đâu và họ làm thế nào màđến được nơi cần đến. Mặc dù họ nhớ rõ rằng họ là ai, tuy vậy họhoàn toàn không thể hình dung được là họ đang làm gì và họ làmthế nào mà có mặt ở chỗ này. Chính trong hippocampe đã ghi lạiđược tất cả những ký ức ngẫu nhiên có tính chất tạm thời mà xemđó, theo ý muốn của con người, có thể chuyển thành những ký ứcbền lâu. Song đích thị ở chỗ nào chúng được ghi lại - đó là vấn đềmà trong một thời gian dài chưa ai tìm được lời giải đáp. Để cóđược lời giải đáp ấy, chúng tôi đã xây dựng mô hình 3D, trong đómỗi một tế bào thần kinh tương ứng với một vocxel (vocxel là mộtbộ phận của hình ảnh có thể tích được cấu tạo từ chữ volumetric -thể tích và pixel - bộ phận của hình ảnh số gồm hai số đó. Hóara, vùng phía sau bên phải của hippocampe bảo quản thông tin vềviệc sự cố đã diễn ra ở đâu, tức là những dữ liệu chung về một sựcố nào đấy. Những vùng biên phía trước đảm nhận vai trò hộpphiếu đặc biệt: những tế bào của khu vực này giống như nhữngkhâu của catalo thư viện, bảo quản thông tin về địa điểm, thời gian,các nhân vật và những hành động mà các nhân vật đó thực hiện.Và về việc những ký ức chi tiết hơn của một sự kiện cần thiết đượcbảo quản cụ thể ở đâu trong vỏ đại não.Chẳng hạn, nếu bộ não cần nhớ lại: cuốn phim thứ nhất để hìnhdung nó dưới dạng hình ảnh thì trong hộp phiếu diễn ra sự lựachọn thích ứng - sẽ hé lộ ra những phiếu màu xanh, áo khoác,rác, cà phê, tức là những phiếu chỉ rõ địa điểm chính xác trêncái giá của vỏ đại não. Điều đáng ngạc nhiên là nhữnghippocampe của những người hoàn toàn khác nhau trên thực tế đãlựa chọn những phiếu giống nhau và khai thác chúng ở cùng mộtkhu vực của vỏ não.Ở giai đoạn thứ ba, những người tình nguyện được xem ba cuốnphim mà ngoài hai cuốn phim về những người đàn bà với thùng rácvà bức thư, còn có thêm một cuốn phim nữa, trong đó có một nữnhân vật chỉ uống một ly nước chanh. Cuốn phim mới này đượcđưa vào cuộc thí nghiệm như một tình huống được phức tạp hóa.Sau khi xem, chúng tôi lại đưa các tình nguyện viên đó vào máyXquang cắt lớp và yêu cầu họ nhớ lại cốt truyện của ba cuốn phimvừa được xem. Mỗi người trong số đó 7 lần moi ra từ ký ức cácđoạn phim ngắn mà chúng tôi yêu cầu họ nhớ lại và 10 lần moi rabất cứ một đoạn phim nào tùy thích. Và về phần mình, chúng tôicố xác định xem họ nhớ lại chính điều gì. Kết quả là tuy không cósự chính xác 100% nhưng có những khác biệt rõ ràng so với xácsuất thống kê. Cần phải nói thêm rằng những người tình nguyệnlàm thí nghiệm là mấy người bạn cũ của tôi làm nghề lái xe taxi.Đó là những người có vùng hippocampe phát triển. Bởi lẽ họ phảinhớ một số lượng lớn địa điểm trong thành phố và những đoạnđường ngắn nhất giữa chúng. Tôi đã tiến hành một số cuộc thínghiệm trong giới tài xế taxi của các thành phố khác nhau ở châuÂu và tôi nghiệm ra rằng chính những người dân London là nhữngngười sở hữu hippocampe phát triển nhất. Tại sao ư? Có lẽ bởi mộtnguyên do đơn giản là những người lái taxi trong phần lớn cácthành phố châu Âu là những người nhập cư. Khi lái xe trong thànhphố, những người này thường ít dựa vào sự hiểu biết của mình vềđịa hình sở tại mà thường ỉ vào thiết bị dẫn đường có định hướng.Còn London về phương diện này là một thành phố khá bảo thủ. Ởđây, những thiết bị dẫn đường trong taxi chưa được phổ biến mấyvì thế đa số dân lái taxi thuộc lòng bản đồ của thành phố”.Hiện nay, các nhà y học nghiên cứu vấn đề về những rối loạn khácnhau của ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: