Gần đây, tôi được đọc một số bài viết có tính học thuật trên tạp chí Mỹ thuật. Trong số đó có những bài viết đưa ra chủ đề lớn, mang tính học thuật, kèm theo là những tác phẩm mỹ thuật minh hoạ cho nội dung bài. Xin nêu ra vài trường hợp cụ thể mà tôi đã gặp: Trường hợp thứ nhất, là ông Tiến sĩ, Hoạ sĩ, Nhà thơ, Giảng viên khoa Nghệ thuật một trường đại học thuộc khoa Xã Hội Nhân Văn (xin phép được giấu tên). Làm như người hiếu học, tôi hỏi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CẢNH GIÁC VỚI BỆNH "LẦM PHẠM TRÙ" TRONG HỌC THUẬTCẢNH GIÁC VỚI BỆNH LẦM PHẠM TRÙTRONG HỌC THUẬTGần đây, tôi được đọc một số bài viết có tính học thuật trên tạp chí Mỹthuật. Trong số đó có những bài viết đưa ra chủ đề lớn, mang tính học thuật,kèm theo là những tác phẩm mỹ thuật minh hoạ cho nội dung bài.Xin nêu ra vài trường hợp cụ thể mà tôi đã gặp:Trường hợp thứ nhất, là ông Tiến sĩ, Hoạ sĩ, Nhà thơ, Giảng viên khoa Nghệthuật một trường đại học thuộc khoa Xã Hội Nhân Văn (xin phép được giấutên). Làm như người hiếu học, tôi hỏi ông Tiến sĩ: “Mỹ học là gì?” ông Tiếnsĩ không ngần ngại rút ngay cây bút bi trên túi áo xé mảnh giấy thiếc baothuốc lá viết đưa cho tôi hai chữ “Fine art”’ (tiếng Anh). Tôi ngạc nhiên vàim lặng. Thế ra ông hiểu Mỹ học (Esthétique) là Mỹ thuật rồi? (Beaux arts,tiếng Pháp). Thực tế hai môn khác nhau. Ông Tiến sĩ đã lầm lẫn một cáchkhông thể tha thứ. Nên gọi tên bệnh đó là gì nếu không phải là lầm lẫn phạmtrù trong học thuật, hay có lỗ hổng về kiến thức?Trường hợp thứ hai, gần đây tôi lại được đọc một bài viết mang tựa đề Cảmxúc Thiền trong sáng tác hội hoạ tác giả là Tiến sĩ Mỹ học Thế Hùng, đăngtrong mục Diễn đàn nghệ sĩ trên TC Mỹ thuật số 210 (6-2010). Cùng vớibài viết tác giả cho đăng ba tác phẩm mỹ thuật nổi tiếng là Mùa xuân vĩnhcửu (Tượng tròn của Auguste Rodin); Những người kéo thuyền trên sôngVolga (Sơn dầu) của I. Repin; Hoa hướng dương (Sơn dầu) của V. Vangogh.Ngoài ra tác giả còn dẫn bốn tác phẩm hội hoạ của hoạ sĩ Việt nam là Vườnxuân Trung Nam Bắc (Sơn mài) của Nguyễn Gia Trí Chơi ô ăn quan (lụa)của Nguyễn Phan Chánh; Thiếu nữ bên hoa huệ (Sơn dầu) của Tô NgọcVân; Em Thúy (Sơn dầu) của Trần Văn Cẩn (trong bài viết). Cùng với mộtloạt thi phẩm, nhạc phẩm của các thiên tài thế giới...Về Thiền, tác giả đã giải thích một số đoạn khá đúng: “Thiền là trạng thái tốicao của ý thức, sau đó là Samadhi - Tối cao của tinh thần giác ngộ. Thiềncũng là tình huống của trầm tư mặc tưởng của tinh thần, hoàn toàn tinhkhiết, không chút trần tục, hầu như ly khai với thực thể...”Ai đã nghiên cứu Thiền, đều biết Châu á có ba nền minh triết lớn là Đạo ấn,Đạo Phật và Thiền. Riêng Phật và Thiền là hai đạo tương hợp, tương đồngnhất.Nói tới văn hoá phương Đông, châu á, là nói tới thế giới quan, nhân sinhquan của triết học Tình - Lý. Ngược lại, với văn hoá phương Tây là nói triếthọc Duy Lý. Mà triết học Phật - Thiền là triết học nội tâm Phương Đông.Sao tác giả bài viết lại đưa những tác phẩm nghệ thuật Phương Tây ra làmdẫn chứng cho “Cảm xúc Thiền”Xin nhắc lại ít dòng chuẩn mực về nghệ thuật Thiền cần biết, để lưu ý vớiTiến sĩ, Hoạ sĩ Thế Hùng:- Đơn bạc đến tối giản đường nét, mầu sắc, hết sức tự do. Không chú trọngcái đẹp con mắt và cái đẹp mỹ thể bề ngoài.- Nhận thức hướng nội, không miêu tả và phân tích. Chỉ ám chỉ và tượngtrưng.- Buông thả hồn nhiên những khoảng trống vô thức, tạo khoảng cách vôcùng giản dị giữa tâm hồn và sự vật. Trong khi đó nhà Hoạ sĩ - nhà Điêukhắc châu Âu vẽ tranh hay tạc tượng (nhất là với phương pháp cổ điển vàtân cổ điển tả thực) giống như những kỹ sư lành nghề đo đạc chính xác. Tráilại, với hoạ sĩ Thiền là những hành động hồn nhiên, tự do, không kiểm soát.- Hội hoạ Thiền khai sinh ra tranh một màu mà người Nhật gọi là Sumie(sumié) trong các tu viện TK XV. Chỉ màu đen trên giấy trắng đã mở ra cáiý vị của thế giới hư vô, trừu tượng mà thời hiện đại đã không ít hoạ sĩ khaithác, tái sinhHoạ sĩ Thiền hầu hết là các tu sĩ, Thiền tăng. Hội hoạ với Thiền là mặc niệm,là đạo, là con đường dẫn tới tối thượng, không còn ý nghĩa cắt lìa con ngườivà vũ trụ, con người và sinh vật, đá và cây, sông và núi... Tất cả chỉ còn làbản chất. Tranh của hoạ sĩ Thiền - Nhật Bản và Trung Hoa thường là ngườiđơn chiếc với bóng trăng; hay ngắm nhìn thác nước, mê man trước một vònghư không(*)Đối chiếu với Mùa xuân vĩnh cửu của Rodin, Người kéo thuyền trên sôngVolga của Repin; Hoa hướng dương của Vangogh, dù có nổi tiếng trong lịchsử mỹ thuật nhân loại mà tác giả bài viết ghép vào “Cảm xúc Thiền”, thì thậtlà gượng ép, nếu không nói là “trái khoáy”. Đó gọi là sai lầm hay lầm lẫnphạm trù trong học thuật?Kết thúc bài viết, tôi xin kê ra ít tư liệu biến động khó sử về khóm tượngMùa xuân vĩnh cửu (thực ra là Chiếc hôn, đá cẩm thạch, được tạc sau hainăm (1886) so với Mùa xuân vĩnh cửu (1884. đồng), nhưng cũng là biến thểcủa nhau, cùng đề tài tình yêu, cùng phong cách bút pháp). Tác phẩm tạc haithân thể nam nữ trần truồng, ôm ghì lấy nhau trong chiếc hôn đắm đuối, rạorực... Pho tượng là đề tài của nhiều cuộc tranh cãi kéo dài. Năm 1893 nướcMỹ mượn trưng bày tại Chicago phải đặt ở một phòng riêng. Ai muốn xemphải có giấy phép. Năm 1916 nước Anh mượn trưng bày. Vì lý do “Sỗsàng”, phải may quần áo lót cho tượng. Năm 1936 tượng lại bày công khai ởbảo tàng Hoàng Gia Anh. Nhưng có cảnh sát túc trực bên cạnh, sợ các thànhviên trẻ đến vừa sờ mó, vừa nhìn. Năm 1957 London vẫn còn cấm dán ápph ...