Cập nhật phân loại, đặc điểm mô bệnh học các tổn thương chế nhầy ruột thừa và giả nhầy phúc mạc
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.12 MB
Lượt xem: 5
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
“Bọc nhầy” ruột thừa là tên gọi chung trước đây trên lâm sàng của các tổn thương lành tính và ác tính khác nhau. Các tân sinh chế nhầy ruột thừa có thể gây thủng, dẫn đến sự tiến triển lan rộng vào khoang phúc mạc, lắng đọng cả dịch nhầy và tế bào tân sinh, gây ra một hội chứng lâm sàng được gọi là giả nhầy phúc mạc. Việc phân loại khối u nguyên phát ở ruột thừa và giả nhầy phúc mạc gặp nhiều khó khăn và trải dài qua nhiều năm.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cập nhật phân loại, đặc điểm mô bệnh học các tổn thương chế nhầy ruột thừa và giả nhầy phúc mạcTổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 6 * 2021 CẬP NHẬT PHÂN LOẠI, ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC CÁC TỔN THƯƠNG CHẾ NHẦY RUỘT THỪA VÀ GIẢ NHẦY PHÚC MẠC Lê Minh Huy1, Dương Huỳnh Trà My2TÓM TẮT “Bọc nhầy” ruột thừa là tên gọi chung trước đây trên lâm sàng của các tổn thương lành tính và ác tính khácnhau. Các tân sinh chế nhầy ruột thừa có thể gây thủng, dẫn đến sự tiến triển lan rộng vào khoang phúc mạc,lắng đọng cả dịch nhầy và tế bào tân sinh, gây ra một hội chứng lâm sàng được gọi là giả nhầy phúc mạc. Việcphân loại khối u nguyên phát ở ruột thừa và giả nhầy phúc mạc gặp nhiều khó khăn và trải dài qua nhiều năm.Hiện nay, phân loại mới nhất được đưa ra bởi Tổ chức ung thư phúc mạc Quốc tế (2016) và Tổ chức y tế thế giới(2019) giúp giải quyết nhiều nhầm lẫn xung quanh thuật ngữ chẩn đoán cho các tổn thương chế nhầy ruột thừa.Việc phân loại các tổn thương chế nhầy ruột thừa dựa vào đặc điểm hình thái mô bệnh học và phân giai đoạn củacác tổn thương này được thảo luận trước, từ đó có các hướng điều trị, theo dõi và tiên lượng bệnh khác nhau. Từ khóa: bọc nhầy, lành tính, ác tínhABSTRACT UPDATE CLASSIFICATION, HISTOLOGICAL CHARACTERISTICS OF APPENDICEAL MUCINOUS LESIONS AND PSEUDOMYXOMA PERITONEI Le Minh Huy, Duong Huynh Tra My ** Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 – No. 6 - 2021: 76 - 83 “Appendiceal mucocele” is the formerly common clinical name for various benign and malignant lesions ofthe appendix. Appendiceal mucinous neoplasms can cause perforation, leading to extensive progression into theperitoneal cavity, deposition of both mucus and neoplastic cells, causing a syndrome clinically known aspseudomyxoma peritonei. The classification of primary appendiceal and pseudomyxoma peritonei is difficult andspans many years. Currently, the latest classification given by Peritoneal Surface Oncology Group International(2016) and World Health Organization (2019) helps to resolve much confusion around diagnostic terminology forappendiceal mucinous lesions. The classification of appendiceal mucinous lesions based on the morphological andhistopathological characteristics and the staging of these lesions are discussed in advance, from which there aredifferent directions of treatment, monitoring and prognosis. Keywords: appendiceal mucocele, benign lesions, malignant lesionsĐẶT VẤN ĐỀ được gọi chung là tổn thương chế nhầy ruột thừa. Trong khi các tài liệu cũ hơn về bọc nhầy ở Ở ruột thừa, thuật ngữ “bọc nhầy” là tên gọi ruột thừa thường không phân biệt được các tổnchung trên lâm sàng dùng để chỉ tình trạng ruột thương lành tính và tân sinh, việc phân loạithừa căng phồng, chứa đầy chất nhầy; nhưng chúng đã trải qua quá trình sàng lọc trong nhiềuthuật ngữ này không rõ ràng và được sử dụng năm qua. Giả nhầy phúc mạc (PMP) là một tìnhtốt nhất để mô tả hình ảnh hơn là một thực thể trạng hiếm gặp, đặc trưng bởi tích tụ chất nhầybệnh lý vì sinh học và hành vi cơ bản của các và cấy ghép vào phúc mạc, thường bắt nguồn từthực thể này rất thay đổi và phạm vi trải dài từ một khối u chế nhầy ở ruột thừa bị thủng. Hànhkhông tân sinh đến tân sinh(1). Các thực thể này1Bộ môn Mô Phôi – Giải Phẫu Bệnh, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh2Khoa Giải phẫu bệnh – Bệnh viện Lê Văn ThịnhTác giả liên lạc: TS. Lê Minh Huy ĐT: 0908190110 Email: leminhhuy@umc.edu.vn76 Chuyên Đề Giải Phẫu BệnhY Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 6 * 2021 Tổng Quanvi sinh học kỳ lạ của PMP làm cho việc phân loại biểu mô niêm mạc và/hoặc đẩy chất nhầy vàocả khối u nguyên phát và bệnh phúc mạc thứ hay xuyên qua thành ruột, làm xuất hiện các bểphát trở nên khó khăn và đã có cuộc tranh luận nhầy không có biểu mô. Thành ruột thừa có thểđáng kể trong y văn về thuật ngữ của PMP và xơ hóa và viêm mạn, và có thể có phản ứng dạngcác tân sinh chế nhầy ruột thừa là nguồn gốc phổ u hạt(1,4).biến nhất của nó. Vào năm 2012, tại Hội nghị Thế Vì tân sinh chế nhầy độ thấp có thể có cácgiới, Hội Ung thư bề mặt phúc mạc Quốc tế đặc điểm trùng lắp với bọc nhầy đơn giản như(PSOGI) đã bàn luận về vấn đề này, và kết quả biểu mô dẹt khu trú, sự xóa lớp biểu mô, hay sựđưa ra một phân loại đồng thuận (quy trình đẩy chất nhầy vào thành ruột hoặc mô bênDelphi cải tiến, vào năm ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cập nhật phân loại, đặc điểm mô bệnh học các tổn thương chế nhầy ruột thừa và giả nhầy phúc mạcTổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 6 * 2021 CẬP NHẬT PHÂN LOẠI, ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC CÁC TỔN THƯƠNG CHẾ NHẦY RUỘT THỪA VÀ GIẢ NHẦY PHÚC MẠC Lê Minh Huy1, Dương Huỳnh Trà My2TÓM TẮT “Bọc nhầy” ruột thừa là tên gọi chung trước đây trên lâm sàng của các tổn thương lành tính và ác tính khácnhau. Các tân sinh chế nhầy ruột thừa có thể gây thủng, dẫn đến sự tiến triển lan rộng vào khoang phúc mạc,lắng đọng cả dịch nhầy và tế bào tân sinh, gây ra một hội chứng lâm sàng được gọi là giả nhầy phúc mạc. Việcphân loại khối u nguyên phát ở ruột thừa và giả nhầy phúc mạc gặp nhiều khó khăn và trải dài qua nhiều năm.Hiện nay, phân loại mới nhất được đưa ra bởi Tổ chức ung thư phúc mạc Quốc tế (2016) và Tổ chức y tế thế giới(2019) giúp giải quyết nhiều nhầm lẫn xung quanh thuật ngữ chẩn đoán cho các tổn thương chế nhầy ruột thừa.Việc phân loại các tổn thương chế nhầy ruột thừa dựa vào đặc điểm hình thái mô bệnh học và phân giai đoạn củacác tổn thương này được thảo luận trước, từ đó có các hướng điều trị, theo dõi và tiên lượng bệnh khác nhau. Từ khóa: bọc nhầy, lành tính, ác tínhABSTRACT UPDATE CLASSIFICATION, HISTOLOGICAL CHARACTERISTICS OF APPENDICEAL MUCINOUS LESIONS AND PSEUDOMYXOMA PERITONEI Le Minh Huy, Duong Huynh Tra My ** Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 – No. 6 - 2021: 76 - 83 “Appendiceal mucocele” is the formerly common clinical name for various benign and malignant lesions ofthe appendix. Appendiceal mucinous neoplasms can cause perforation, leading to extensive progression into theperitoneal cavity, deposition of both mucus and neoplastic cells, causing a syndrome clinically known aspseudomyxoma peritonei. The classification of primary appendiceal and pseudomyxoma peritonei is difficult andspans many years. Currently, the latest classification given by Peritoneal Surface Oncology Group International(2016) and World Health Organization (2019) helps to resolve much confusion around diagnostic terminology forappendiceal mucinous lesions. The classification of appendiceal mucinous lesions based on the morphological andhistopathological characteristics and the staging of these lesions are discussed in advance, from which there aredifferent directions of treatment, monitoring and prognosis. Keywords: appendiceal mucocele, benign lesions, malignant lesionsĐẶT VẤN ĐỀ được gọi chung là tổn thương chế nhầy ruột thừa. Trong khi các tài liệu cũ hơn về bọc nhầy ở Ở ruột thừa, thuật ngữ “bọc nhầy” là tên gọi ruột thừa thường không phân biệt được các tổnchung trên lâm sàng dùng để chỉ tình trạng ruột thương lành tính và tân sinh, việc phân loạithừa căng phồng, chứa đầy chất nhầy; nhưng chúng đã trải qua quá trình sàng lọc trong nhiềuthuật ngữ này không rõ ràng và được sử dụng năm qua. Giả nhầy phúc mạc (PMP) là một tìnhtốt nhất để mô tả hình ảnh hơn là một thực thể trạng hiếm gặp, đặc trưng bởi tích tụ chất nhầybệnh lý vì sinh học và hành vi cơ bản của các và cấy ghép vào phúc mạc, thường bắt nguồn từthực thể này rất thay đổi và phạm vi trải dài từ một khối u chế nhầy ở ruột thừa bị thủng. Hànhkhông tân sinh đến tân sinh(1). Các thực thể này1Bộ môn Mô Phôi – Giải Phẫu Bệnh, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh2Khoa Giải phẫu bệnh – Bệnh viện Lê Văn ThịnhTác giả liên lạc: TS. Lê Minh Huy ĐT: 0908190110 Email: leminhhuy@umc.edu.vn76 Chuyên Đề Giải Phẫu BệnhY Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 6 * 2021 Tổng Quanvi sinh học kỳ lạ của PMP làm cho việc phân loại biểu mô niêm mạc và/hoặc đẩy chất nhầy vàocả khối u nguyên phát và bệnh phúc mạc thứ hay xuyên qua thành ruột, làm xuất hiện các bểphát trở nên khó khăn và đã có cuộc tranh luận nhầy không có biểu mô. Thành ruột thừa có thểđáng kể trong y văn về thuật ngữ của PMP và xơ hóa và viêm mạn, và có thể có phản ứng dạngcác tân sinh chế nhầy ruột thừa là nguồn gốc phổ u hạt(1,4).biến nhất của nó. Vào năm 2012, tại Hội nghị Thế Vì tân sinh chế nhầy độ thấp có thể có cácgiới, Hội Ung thư bề mặt phúc mạc Quốc tế đặc điểm trùng lắp với bọc nhầy đơn giản như(PSOGI) đã bàn luận về vấn đề này, và kết quả biểu mô dẹt khu trú, sự xóa lớp biểu mô, hay sựđưa ra một phân loại đồng thuận (quy trình đẩy chất nhầy vào thành ruột hoặc mô bênDelphi cải tiến, vào năm ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nghiên cứu y học Đặc điểm mô bệnh học Tổn thương chế nhầy ruột thừa Giả nhầy phúc mạc Phân loại khối u nguyên phát Tế bào tân sinhTài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 320 0 0 -
5 trang 314 0 0
-
8 trang 269 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 259 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 245 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 232 0 0 -
13 trang 214 0 0
-
5 trang 212 0 0
-
Tình trạng viêm lợi ở trẻ em học đường Việt Nam sau hai thập niên có chương trình nha học đường
4 trang 211 0 0 -
8 trang 211 0 0