Danh mục

Câu 1: Trình bày ưu nhược điểm của các phương pháp phân tích kinh tế, phạm vi ứng dụng của các phương pháp

Số trang: 8      Loại file: docx      Dung lượng: 21.51 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong phân tích kinh tế, có thể sử dụng rất nhiều các phương pháp phân tích khác nhau. Tùy theo mục đích, nội dung và điều kiện số liệu đầu và của phân tích mà người ta lựa chọn các cách thức phân tích cho phù hợp. Sau đây là các phương pháp phân tích kinh tế chủ yếu và thông dụng hiện nay. Tham khảo tài liệu câu 1 "Trình bày ưu nhược điểm của các phương pháp phân tích kinh tế, phạm vi ứng dụng của các phương pháp" để nắm bắt thông tin chi tiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Câu 1: Trình bày ưu nhược điểm của các phương pháp phân tích kinh tế, phạm vi ứng dụng của các phương pháp Câu 1: Trình bày ưu nhược điểm của các phương pháp phân tích kinh tế;  phạm vi ứng dụng của các phương pháp. Phương pháp phân tích kinh tế được hiểu là tổng hợp các cách thức, thủ pháp,  công thức, mô hình… được sử dụng trong quá trình phân tích để nghiên cứu bản  chất và quy luật vận động của các hiện tượng kinh tế. Trong phân tích kinh tế, có thể sử dụng rất nhiều các phương pháp phân tích khác  nhau. Tùy theo mục đích, nội dung và điều kiện số liệu đầu và của phân tích mà  người ta lựa chọn các cách thức  phân tích cho phù hợp. Sau đây là các phương  pháp phân tích kinh tế chủ yếu và thông dụng hiện nay: 1.Phương pháp so sánh So sánh là phương pháp cổ điển, đơn giản có từ lâu đời nhưng rất quan trọng khi  nghiên cứu để nhận thức các hiện tượng. Bản chất của so sánh trong phân tích kinh tế là đem đối chiếu hiện tượng này với  hiện tượng khác để thấy được sự giống và khác biệt giữa các hiện tượng trên  những phương diện nhất định. Yêu cầu đối với so sánh là phải so sánh ở trạng thái đồng nhất. Cụ thể khi so sánh  ta cần chú ý các điều kiện sau: +Phải đảm bảo thống nhất về nội dung kinh tế của chỉ tiêu: Thông thường nội dung kinh tế của các chỉ tiêu có tính ổn định và được quy định  thống nhất. Tuy nhiên do đặc tính của chỉ tiêu là mang tính tương đối và có thể  thay đổi tùy theo điều kiện lịch sử, bởi vậy nội dung kinh tế của nó cũng có thể  thay đổi theo các chiều hướng khác nhau như mở rộng hay thu hẹp phạm vi phản  ánh, được khu vực hóa và quốc tế hóa… Trong các trường hợp như vậy, để đảm  bảo so sánh được, cần tính toán lại trị số gốc của chỉ tiêu cho phù hợp với nội  dung mới. +Phải đảm bảo tính thống nhất về phương pháp tính toán các chỉ tiêu: Trong kinh doanh, các chỉ tiêu có thể được thống kê và tính toán theo các phương  pháp khác nhau do tác động của hàng loạt các yếu tố khách quan cũng như chủ  quan. Khi so sánh, cần lựa chọn hoặc tính lại các trị số chỉ tiêu theo một phương  pháp thống nhất. Chẳng hạn, cùng một chỉ tiêu trọng tải phương tiện bình quân  nhưng bằng các phương pháp tính toán khác nhau sẽ cho những kết quả khác nhau. +Đảm bảo tính thống nhất về đơn vị tính toán cả về số lượng, thời gian và giá trị. Ngoài các điều kiện trên, khi so mức độ đạt được của các chỉ tiêu ở các doanh  nghiệp khác nhau, còn cần đảm bảo các điều kiện khác như cùng mục tiêu kinh  doanh, môi trường kinh doanh, quy mô, trình độ trang bị kỹ thuật của sản xuất  tương tự nhau… Tất cả các điều kiện trên gọi chung là đặc tính “có thể so sánh” hay tính “so sánh  được’ của các chỉ tiêu phân tích. Số liệu dùng để so sánh; +Số tuyệt đối: Là số tập hợp trực tiếp từ các yếu tố cấu thành hiện tượng kinh tế được phản ánh  như: Tổng sản lượng, tổng chi phí, tổng số lao động… Phân tích bằng số tuyệt đối cho thấy khối lượng, quy mô của hiện tượng. +Số tương đối:  Là số biểu thị dưới dạng số phần trăm, số tỷ lệ hoặc hệ số sử dụng. Ví dụ như:  tỷ lệ phần trăm thay đổi của doanh thu thuần năm 2014 so với năm gốc 2013 hay  hệ số hiệu suất sử dụng TSCĐ… Số tương đối có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu của hiện tượng kinh tế,  đặc biệt cho phép liên kết các chỉ tiêu không tương đương để phân tích. +Số bình quân Là số phản ánh mặt chung nhất của hiện tượng, bỏ qua sự phát triển không đồng  đều của các bộ phận cấu thành hiện tượng kinh tế. Số bình quân có thể biểu thị  dưới dạng số tuyệt đối (năng suất phương tiện bình quân, doanh thu bình quân…)  cũng có thể biểu thị dưới dạng số tương đối (tỷ suất chi phí bình quân, tỷ suất lợi  nhuận bình quân…) Sử dụng số bình quân cho phép nhận định tổng quát về hoạt động kinh tế của  doanh nghiệp, xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật…Tuy nhiên cũng cần lưu ý,  số lượng mà số bình quân phản ánh không tồn tại trong thực tế. Khi sử dụng số  bình quân, cần tính tới các khoảng dao động tối đa, tối thiểu. Phương pháp so sánh có một số ưu, nhược điểm như sau: +Ưu điểm: ­Ưu điểm lớn nhất của phương pháp so sánh là cho phép tách ra được những nét  riêng, nét chung của các hiện tượng được so sánh làm tiền đề cho việc đánh giá  các mặt phát triền hay kém phát triển; hiệu quả hay không hiệu quả để từ đó đề  xuất các giải pháp tổ chức hợp lý và tối ưu trong từng trường hợp cụ thể. ­Đơn giản, dễ thực hiện ­Là phương pháp bổ trợ khi sử dụng các phương pháp phân tích kinh tế khác. ­Với việc sử dụng cả số tuyệt đối, tương đối và số bình quân khi so sánh có thể  cho ta những đánh giá toàn diện cả về quy mô, sự thay đổi kết cấu cũng như cho  phép ta đưa ra những nhận định tổng quát về hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. +Nhược điểm: ­Phương pháp so sánh chỉ cho phép xem xét, đánh giá kết quả  mà không tìm hiểu  được nguyên nhân bản chất bên trong gây ra sự biến động hoạt động kinh tế của  doanh nghiệp. Phạm vi ứng dụng: +So sánh giữa thực tế và kế hoạch Mục đích là để đánh giá sơ bộ mức độ hoàn thành kế hoạch, xác định tiềm năng  nâng cao mức độ đạt được của các chỉ tiêu.  +So sánh giữa chỉ tiêu kỳ thực hiện và kỳ phân tích Mục đích của so sánh trong trường hợp này là để đánh giá xu hướng phát triển và  nhịp độ tăng trưởng các chỉ tiêu phân tích đồng thời nghiên cứu các cơ hội và khả  năng để đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng của các chỉ tiêu. +So sánh giữa các doanh nghiệp Mục đích là để đánh giá vị trí và tìm ra những nguồn dự trữ trong sản xuất của  doanh nghiệp. Khi so sánh hai hay nhiều doanh nghiệp phải đảm bảo sự so sánh là  đồng nhất. Ngoài ra khi so sánh phải lựa chọn những chỉ tiêu so sánh có khả năng  phản ánh được bản chất của hiện tượng đem so sánh. Chẳng hạn, khi so sánh năng suất phương tiện giữa các doanh nghiệp vận tải ô tô  có cơ cấu đoàn xe theo trọng tải khác nhau thì không thê chỉ dùng chỉ tiêu năng suất  bình quân một đầu xe nà cần chọn chỉ tiêu năng suất bình quân một tấn phương  tiện hoặc một ghế xe.  +So sánh chỉ tiêu của doanh nghiệp với chỉ tiêu bình quân của ngành Việc so sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp với chỉ tiêu  ...

Tài liệu được xem nhiều: