Thông tin tài liệu:
Một trong những vấn đề làm đau đầu các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp là xây dựng cấu trúc vốn của doanh nghiệp như thế nào, vốn chủ sở hữu bao nhiêu, vay ngân hàng bao nhiêu để có thể tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, hay còn gọi là xây dựng cấu trúc vốn tối ưu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cấu trúc vốn tối ưu của doanh nghiệp
Cấu trúc vốn tối ưu của một doanh nghiệp.
Nguyễn Khả Phong
Một trong những vấn đề làm đau đầu các nhà
quản trị tài chính doanh nghiệp là xây dựng cấu
trúc vốn của doanh nghiệp như thế nào, vốn chủ
sở hữu bao nhiêu, vay ngân hàng bao nhiêu để có
thể tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, hay còn gọi là
xây dựng cấu trúc vốn tối ưu. Đây là một vấn đề
khá thú vị cả trong nghiên cứu lý luận lẫn áp dụng
trong thực tiễn. Một cấu trúc vốn tối ưu được định
nghĩa là một cấu trúc vốn trong đó chi phí sử dụng vốn bình quân nhỏ nhất và giá
trị doanh nghiệp đạt lớn nhất.
Vấn đề cốt lõi của cấu trúc vốn tối ưu là khi doanh nghiệp vay nợ, doanh nghiệp
tận dụng được lợi thế của lá chắn thuế từ nợ vay, bản chất của vấn đề này là lãi
suất mà doanh nghiệp trả cho nợ được miễn thuế (thuế được đánh sau lãi vay).
Một cách đơn giản ta có thể hình dung là giá trị của doanh nghiệp khi vay nợ sẽ
bằng giá trị của doanh nghiệp không vay nợ cộng với hiện giá của lá chắn thuế từ
nợ. Trong trường hợp đặt biệt là khi doanh nghiệp vay nợ vĩnh viễn thì hiện giá
của tấm chắn thuế sẽ bằng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp nhân với nợ vay
(TCD).
Mặt trái của vay nợ là vay càng nhiều nợ thì sẽ xuất hiện chi phí kiệt quệ tài chính
và “một lúc nào đó” hiện giá của chi phí kiệt quệ tài chính (y) sẽ làm triệt tiêu hiện
giá của của lá chắn thuế từ nợ vay(PV của tấm chắn thuế).
Một điều kiện nữa của cấu trúc vốn tối ưu là còn phải xem xét đến tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp, tức là thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT) phải vượt
T
qua điểm bàng quang để doanh nghiệp có thể tận dụng được đòn cân nợ. Nay bài
viết này chỉ bàn về vấn đề cấu trúc vốn tối ưu tại điểm nợ vay “một lúc nào đó”
mà chi phí sử dụng vốn nhỏ nhất, tức là giả định trước là EBIT đã thoả mãn cho
doanh nghiệp tận dụng được đòn cân nợ. Điều này có cơ sở là vì khi thành lập
doanh nghiệp với một qui mô nhất định ta đã phải dự tính doanh thu, chi phí và
nhu cầu vốn trước, vấn đề tiếp theo là ta xác định vốn vay bao nhiêu và vốn cổ
phần bao nhiêu để tối ưu hoá giá trị doanh nghiệp.
Giả định ta có một dự án ABC mà chủ sở hữu bỏ ra là $200, tình hình kinh doanh
như sau: doanh thu hàng năm là $400, định phí $40, biến phí chiếm 70% doanh
thu là $280, thu nhập trước thuế là $40, thuế suất thuế thu nhập 40%, lãi ròng là
$24, thu nhập trên vốn chủ sở hữu ROE = 12%.
Giả định lãi vay ngân hàng là 8%(*), tỷ lệ này không đổi cho doanh nghiệp khi
vay nợ từ $0 đến
$200.
Yêu cầu đặt ra là chúng ta đi tìm cấu trúc vốn của doanh nghiệp khi vay nợ bao
nhiêu và giảm vốn chủ sở hữu đến bao nhiêu thì có cấu trúc vốn “tối ưu”.
Xác định giá trị của doanh nghiệp khi tăng mức độ vay nợ như thế nào?
Ta biết rằng hiện giá của lá chắn thuế từ nợ vay theo tỷ lệ vay nợ là một đường
thẳng như đồ thị dưới đây. Giá trị của doanh nghiệp sẽ bằng $200+ TCD.
Tất nhiên là không thể phát biểu rằng doanh nghiệp càng vay nợ thì giá trị doanh
nghiệp càng cao, vậy giá trị doanh nghiệp phải được bù trừ với hiện giá của chi
phí kiệt quệ tài chính. Vấn đề là cho đến hiện nay chưa có một công trình nào
lượng hoá được hiện giá của chi phí kiệt quệ tài chính.
Trong khi chờ một giải pháp hoàn hảo cho việc lượng hoá chi phí kiệt quệ tài
chính tôi đề nghị dùng tạm một phương pháp đơn giản, dễ áp dụng mà bất kỳ một
kế toán trưởng hay một giám đốc doanh nghiệp nào cũng có thể vận dụng nó để
tính tỷ lệ nợ “thích hợp”cho doanh nghiệp mình.
Giả sử hiện giá của chi phí kiệt quệ tài chính là một đường cong của paraboll quay
ngược và ta chỉ lấy giá trị phần bên phải tính từ đỉnh của Paraboll. Đỉnh của nó sẽ
nằm trên trục x (trục đại diện cho tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu). Chúng ta sẽ đi tìm
những giá trị của nó:
,
sẽ đạt giá trị nhỏ nhất khi , .
Ý nghĩa kinh tế là khi vay nợ 100% (một công ty chỉ có vay nợ, không có vốn chủ
sở hữu) thì hiện giá của lá chắn thuế từ vay nợ sẽ không có ý nghĩa nữa.
Ta có đẳng thức , và parabol có đỉnh tại:
, khi .
Ý nghĩa kinh tế là khi vay nợ từ $0 đến tỷ lệ nợ vay (đỉnh của Paraboll) này ta
chưa có ảnh hưởng của chi phí kiệt quệ tài chính, nhưng nếu ta tăng nợ lên (cho
chạy) thì hiện giá của chi phí kiệt quệ tài chính cũng bắt đầu xuất hiện và tăng
lên nhưng nó sẽ tăng nhanh hơn hiện giá của tấm chắn thuế từ nợ vay.
Để có thể lập mô hình tổng quát ta lập hệ phương trình sau:
a+b+c= -TCD (1)
b+2ax=0 (2)
b2-4ac=0 (3)
Từ (1) => c=-TCD -a-b, thế vào (3)
b2-4a(-TCD -a-b)=0
b2+4aTCD +4a2+4ab=0
mà b=-2ax =>
4a2x2+4aTCD +4a2+4a(-2ax)=0
hay
4a2x2+4aTCD +4a2-8a2x=0
4a(ax2+TCD +a-2ax)=0
lúc này ta có hai nghiệm; a=0 (không có ý nghĩa kinh tế, ta bỏ qua nghiệm này);
ax2+TCD +a-2ax=0 =>
ax2+a-2ax= -TCD
a(1+x2-2x)= -TCD
a= -TCD/(1+x2-2x)
Mục tiêu của chúng ta là tính a theo x, từ a ta tính được b và c theo hệ phương
trình trên.
Vấn đề lúc này là làm sao xác định x, từ ý nghĩa kinh tế của điểm x là khi doanh
nghiệp vay nợ với một tỷ lệ nhỏ hơn x thì chưa có ảnh hưởng của chi phí kiệt quệ
tài chính, khi doanh nghiệp vay nợ vượt qua x thì sẽ có ảnh hưởng của chi phí kiệt
quệ tài chính và nó sẽ tăng rất nhanh và bù trừ với hiện giá của lá chắn thuế từ nợ
vay. Vấn đề khá thú vị khi xác định điểm x này là ta có thể ứng dụng chỉ số tín
nhiệm Z để xác định x. Chỉ số tín nhiệm Z là chỉ số từ công trình của Giáo sư
Edward I.Altman, trường kinh doanh Leonard N.Strem, thuộc ...