Danh mục

Cây Phi lao vừa giữ cát, vừa làm thuốc

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 102.70 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Người đưa cây phi lao từ Pháp sang trồng ở Việt Nam là linh mục Mery (tên Việt Nam là Y) vào khoảng từ năm 1894 đến năm 1902. Người đưa cây phi lao từ Pháp sang trồng ở Việt Nam là linh mục Mery (tên Việt Nam là Y) vào khoảng từ năm 1894 đến năm 1902.Phi lao được trồng trước tiên ở một vùng đất nhỏ chạy dài: phía Đông là biển, phía Tây là phá Tam Giang, dọc bờ biển là những cồn cát trắng, hàng năm thường cóbão cát và sóng thần....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cây Phi lao vừa giữ cát, vừa làm thuốcCây Phi lao vừa giữ cát, vừa làm thuốcNgười đưa cây phi lao từ Pháp sang trồng ở Việt Nam là linh mục Mery (tênViệt Nam là Y) vào khoảng từ năm 1894 đến năm 1902.Người đưa cây phi lao từ Pháp sang trồng ở Việt Nam là linh mục Mery (tên ViệtNam là Y) vào khoảng từ năm 1894 đến năm 1902.Phi lao được trồng trước tiên ở một vùng đất nhỏ chạy dài: phía Đông là biển, phíaTây là phá Tam Giang, dọc bờ biển là những cồn cát trắng, hàng năm thường cóbão cát và sóng thần. Thật kỳ lạ và may mắn, cây Phi lao đã bám rễ xanh tốt ởvùng cát khô cằn này.Về mặt khoa học thì chẳng có gì là lạ vì rễ cây Phi lao có nốt rễ cây như nốt rễ câyđậu, có thể cố định đạm từ không khí nên có thể sống trên cát, nơi không có đạmhữu cơ. Mặt khác, cái mà ta quen gọi là “lá” thực ra đó là các cành, còn các lá dínhsát vào các cành nhỏ này, chỉ còn lại những vảy nhỏ mọc vòng quanh cành màthôi. Nhờ đó, diện tích quang hợp tăng lên cho phép cây Phi lao tận dụng đượcnăng lượng của ánh sáng mặt trời, diện tích thoát hơi nước lại giảm đi nên cây Philao không bị khô héo trên cát nóng bỏng. Phi lao chắn bão cát, đem màu xanh chovùng đất chết.Cây Phi lao cứng cáp, lá xanh tươi bốn mùa. Lá khô và quả dùng để đun nấu. Thâncây mau lớn, sau 6 - 7 năm được thu hoạch, bán gỗ hay bán củi đều là một nguồ nlợi kinh tế đáng kể. Gỗ đỏ màu xám rất rắn dùng trong xây dựng, đóng tầu, làmthan, làm củi. Từ lâu các nhà trồng cây cảnh đã trồng uốn làm cây cảnh nghệ thuật.Vỏ xám trên cành non, nâu sẫm trên cành già, chứa chất casuarin dùng để nhuộ m,do có Tanin nên được dùng để thuộc da, chế với sunfat sắt cho màu đen. Tro củagỗ là nguyên liệu chế xà phòng.Từ vùng đất phá Tam Giang, cây Phi lao nhanh chóng nhân giống ra khắp cácmiền đất nước từ Nam chí Bắc, từ đồng bằng đến trung du, từ biên giới đến hải đảo.Phi lao trở thành rừng phòng hộ, rừng chắn cát, chắn bão. Thời kỳ kháng chiếnchống Mỹ, Phi lao được trồng hai bên đường trở thành cây ngụy trang cho các binhđoàn vào Nam đánh M ỹ. Cây Phi lao đã mau chóng đi vào làng quê, thôn xóm củangười Việt, thân thương như cây tre. Và không hiểu từ bao giờ và từ đâu người talại gọi cây Phi lao là cây Dương. Cây Dương ở trước biển rì rào đón gió đại dương:đó là nguồn cảm hứng cho thi ca, nhạc họa.Ở nước ta, người ta xông lá cây Phi lao để chữa khỏi bệnh tổ đỉa, tỷ lệ khỏi đạt72% , giảm bệnh là 13% và không khỏi có 11%. Thuốc mỡ than quả Phi lao đượcdùng chữa chàm bìu như sau: Quả Phi lao khô 300g, Tóc rối 20g, Kẽm ôxit 10g,Dầu lạc hay Dầu dừa 50ml. Quả Phi lao và Tóc rối đem đốt tồn tính rồi nghiền nhỏthành bột than mịn (đốt tồn tính là cách đốt trong y học cổ truyền: đốt thành thannhưng không thành tro). Than Phi lao, Tóc rối trộn với Kẽm ôxit rồi rót từ từ Dầulạc hay Dầu dừa vào, đánh thành thuốc mỡ bôi hàng ngày. Bệnh cấp tính khỏitrong vòng 15-20 ngày, có người chỉ 8-15 ngày là khỏi. Nhiều sách thuốc nướcngoài cũng nói đến công dụng làm thuốc của cây Phi lao.

Tài liệu được xem nhiều: