Thông tin tài liệu:
Xuất huyết dịch kính mức độ nhẹ: Thị lực giảm nhưng không đến nỗi nặng nề. Ánh đồng tử không còn hồng đều mà có màu xám. Nếu xuất huyết mức độ nhẹ hơn thì có thể còn soi thấy đám máu che lấp một vùng võng mạc.
Về bệnh căn và cách xử trí tương tự như đã nêu ở mục xuất huyết dịch kính mức độ nặng ( 2.1.1.1.phần c).
2.1.2. Giảm thị lực nhanh ở hai mắt: Có hai căn nguyên chính là mù vỏ não hoặc bệnh thị thần kinh.
a) Mù vỏ não: Bệnh nhân bị...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHẨN ĐOÁN MỜ MẮT (Kỳ 5)
CHẨN ĐOÁN MỜ MẮT
(Kỳ 5)
f) Xuất huyết dịch kính mức độ nhẹ: Thị lực giảm nhưng không đến nỗi
nặng nề. Ánh đồng tử không còn hồng đều mà có màu xám. Nếu xuất huyết mức
độ nhẹ hơn thì có thể còn soi thấy đám máu che lấp một vùng võng mạc.
Về bệnh căn và cách xử trí tương tự như đã nêu ở mục xuất huyết dịch kính
mức độ nặng ( 2.1.1.1.phần c).
2.1.2. Giảm thị lực nhanh ở hai mắt: Có hai căn nguyên chính là mù vỏ
não hoặc bệnh thị thần kinh.
a) Mù vỏ não: Bệnh nhân bị giảm thị lực nghiêm trọng hoặc mù hoàn toàn
cả hai mắt trong khi đó phản xạ đồng tử vẫn bình thường. Khám ở tại mắt hầu như
không thấy dấu hiệu gì đặc biệt.
Nguyên nhân hay gặp nhất của mù vỏ não là nhồi máu thuỳ chẩm hai bên
và ít gặp hơn là do u nguyên phát hoặc di căn gây tổn thương hai thuỳ chẩm, vì
vậy khi gặp bệnh nhân nghi ngờ mù vỏ não cần kiểm tra về tim mạch, chụp cắt lớp
vi tính hoặch chụp cộng hưởng từ sọ não. Rất cần thiết có sự phối hợp với các thầy
thuốc thần kinh nội, ngoại khoa trong chẩn đoán và điều trị.
b) Bệnh thị thần kinh:
Giảm thị lực ở hai mắt do bệnh lý thị thần kinh thì nhóm nguyên nhân đứng
đầu là nhiễm độc, tác nhân có thể là rượu, thuốc lá, ethambutol, quinin… sau đó
tới nhóm nguyên nhân do kém dinh dưỡng, rối loạn chuyển hoá, di truyền. Đặc
điểm của giảm thị lực ở đây là giảm chỉ với tốc độ tương đối nhanh ở cả hai mắt,
khuyết thị tường trung tâm, không hề đau rức và có tiền sử liên quan tới các tác
nhân kể trên.
Trong việc điều trị nhóm bệnh lý này thì vấn đề hàng đầu là loại trừ tác
nhân gây bệnh (rượu, thuốc lá, các thuốc khác...). Các vitamin nhóm B (B1, B6,
B12) đuợc dùng với liều cao, tăng tuần hoàn tại chỗ. Cần theo dõi bằng chỉ tiêu thị
lực và thị trường hàng tháng ở giai đoạn đầu, sau đó là định kỳ 6 tháng đến 1 năm.
2.2. Giảm thị lực từ từ với mắt không đỏ: Khi gặp những bệnh nhân
nhóm này việc khám xét tìm các căn nguyên gây giảm thị lực cần khám lần lượt đi
từ trước ra sau theo thứ tự cấu trúc giải phẫu của nhãn cầu để tránh bỏ sót bệnh lý.
2.2.1. Căn nguyên giác mạc: Đứng hàng đầu trong nhóm căn nguyên này
là các tật khúc xạ do đó việc khám xét, phân tích tình trạng khúc xạ của bệnh nhân
bao giờ cũng phải tiến hành trước nhất.
a) Cận thị:
Mắt cận thị có tiêu điểm sau ở phía trước võng mạc. Các tia sáng từ vô cực
đi tới mắt sẽ hội tụ lại ở điểm này tức là ảnh của vật ở xa vô cực sẽ rơi ở phía
trước võng mạc do đó mắt cận thị không nhìn rõ các vật ở xa, thị lực nhìn xa bao
giờ cũng thấp hơn 10/10.
Nếu di chuyển vật tiêu dần dần lại phía mắt, đến một điểm nào đó ảnh của
vật sẽ hiện lên đúng vào võng mạc, khi đó mắt cận thị mới bắt đầu nhìn rõ vật. Vị
trí của vật lúc đó gọi là viễn điểm, viễn điểm của người cận thị ở rất gần mắt. Như
vậy người cận thị chỉ nhìn rõ vật ở gần.
Trên lâm sàng, người cận thị hay nheo mắt để nhìn cho rõ vật, cơ chế của
hiện tượng này là khi nheo mắt thì khe mi hẹp lại, đồng tử co nhỏ hơn và do đó mà
hạn chế các tia xung quanh (là các tia bị khúc xạ) và hầu như chỉ có tia sáng trung
tâm đi qua đúng trục thị giác (tia không bị khúc xạ) để vào võng mạc.
Khi khám bệnh nhân cận thị chỉ cần cho họ nhìn qua kính lỗ thị lực sẽ tăng
.Thử thị lực với các kính cầu phân kỳ chúng ta sẽ chọn được số kính thích hợp.
Cần phải nhớ rằng, động tác điều tiết của cơ thể mi bao giờ cũng chỉ làm phồng
thể thuỷ tinh để tăng công suất hội tụ tức là khi mắt điều tiết ảnh của vật chỉ được
di chuyển theo một chiều từ sau ra trước. Khi mắt nhả điều tiết thì thể thuỷ tinh sẽ
dẹp xuống, công suất hội tụ khi đó cũng sẽ giảm đi. Như vậy càng điều tiết thì ảnh
của mắt cận thị càng chạy ra xa phía trước võng mạc. Do đó lúc bình thường
người cận thị hầu như không có điều tiết. Điều tiết đi liền với qui tụ , do qui tụ
kém cho nên người cận thị hay bị lác ngoài. Khi vật di chuyển tới gần mắt hơn so
với viễn điểm, ảnh của vật sẽ rơi ra phía sau võng mạc. Mắt lúc đó sẽ điều tiết đẩy
ảnh về phía trước gần với võng mạc hơn để nhìn cho rõ vì thế khi thử kính cho
người cận thị chúng ta sẽ gặp hiện tượng là có tới 3, 4 số kính liền nhau đều cho
thị lực đạt mức cao nhất. Các số kính cận (kính phân kỳ) cao hơn chính là các kính
đã đưa ảnh xa hơn về phía sau võng mạc nhưng do có khả năng điều tiết cho nên
bệnh nhân vẫn cố gắng để nhìn rõ được. Vì vậy chọn kính cho mắt cận thị phải
chọn số kính thấp nhất trong dãy số kính cho thị lực tốt nhất. Khi đó mắt bệnh
nhân hoàn toàn không phải điều tiết mà vẫn có được thị lực cao. Ví dụ:
- Kính –1diop thị lực đạt 10/10.
- Kính –1,25 diop thị lực đạt 10/10.
- Kính –1,5 diop thị lực đạt 10/10.
Số kính được chọn trong trường hợp này là -1,5 diop.
Nguyên do của cận thị có thể do trục nhãn cầu quá dài, do giác mạc quá
cong hoặc do lực khúc xạ của thể thuỷ tinh quá ca ...