Danh mục

Chế độ quản lý nhà nước về Kinh tế

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 114.16 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật Nếu không có các nguyên tắc cơ bản của trật tự xã hội với các thể chế làm trụ cột thì thị trường không thể hoạt động được. Với chức năng, nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật, Nhà nước là nhân tố sống còn trong việc đặt nền móng thể chế cho các thị trường. Tại những nước đang phát triển, ưu tiên số một của Nhà nước là thiết lập những nền tảng ban đầu của pháp luật trong điều kiện thị trường, đó là: a....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chế độ quản lý nhà nước về Kinh tế Chế độ quản lý nhà nước về Kinh tế3. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật Nếu không có các nguyên tắc cơbản của trật tự xã hội với các thể chế làm trụ cột thì thị trường không thể hoạtđộng được. Với chức năng, nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật, Nhà nước lànhân tố sống còn trong việc đặt nền móng thể chế cho các thị trường. Tại nhữngnước đang phát triển, ưu tiên số một của Nhà nước là thiết lập những nền tảng banđầu của pháp luật trong điều kiện thị trường, đó là:a. Bảo vệ đời sống và tài sản, chống lại những hành vi tội phạm.b. Hạn chế các hành động độc đoán của các quan chức Nhà nước- kể từ việc banhành những điều tiết phi thể thức và những khoản thuế, phí không lường trướcđược, đến tham nhũng, đó vốn là nhân tố làm rối loạn công việc kinh doanh.c. Xây dựng hệ thống tư pháp trung thực và có thể lường trước được.Một khi đã có một nền tảng pháp luật phù hợp với sự phát triển kinh tế, toàn diệnvà đầy đủ thì trọng tâm của vấn đề sẽ được chuyển sang những điều tiết phức tạphơn nhằm mở rộng thông tin và tăng cường hợp tác.Phạm vi của pháp luật rất rộng lớn, từ việc cấp giấy phép kinh doanh đến việcquản lý thị trường...Tuy nhiên cải cách trong những lĩnh vực này sẽ chỉ có kết quảở những nơi có năng lực thể chế mạnh.* Vai trò của pháp luật trong việc phát triển kinh tế một cách bền vững1. “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu hiệntại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của các thếhệ tương lai”.Đây là định nghĩa do Ủy ban Liên hợp quốc về môi trường và phát triển đưa ra. Vềnội dung, phát triển bền vững được hiểu là một quá trình bao gồm không chỉ cácmục tiêu về tăng trưởng kinh tế, mà còn có cả các mục tiêu nâng cao phúc lợi xãhội và bảo vệ môi trường sinh thái.Quan niệm về phát triển bền vững được hình thành qua một khoảng thời giantương đối dài, xuất phát từ yêu cầu giải quyết những vấn đề mà các quốc gia gặpphải trong tiến trình phát triển của mình. Trước đây, trong quan niệm về phát triểncủa các quốc gia công nghiệp, vấn đề tăng trưởng kinh tế được thể hiện chủ yếuqua chỉ tiêu GDP luôn được coi trọng. Quan niệm này cũng được coi là kim chỉnam tại các nước công nghiệp mới và các nước đang phát triển trong những năm50 và 60 của Thế kỷ, trước khi các nước này bắt đầu bước vào công nghiệp hóanhằm mục đích đuổi kịp các nước phát triển.Sau một thời gian, các hậu quả về mặt xã hội và môi trường bắt đầu xuất hiện. Tạinhiều nước, nghèo đói và bất bình đẳng không những không giảm đi mà có xuhướng tăng lên, dẫn đến các áp lực chính trị ngày càng lớn, nguy cơ xung đột, bấtổn định xã hội ngày càng gia tăng. Trước tình hình đó, các nghiên cứu về pháttriển bắt đầu nhấn mạnh tới yêu cầu phải phân phối thu nhập công bằng hơn vàphải giảm nghèo đói. Mục tiêu phát triển của các quốc gia cũng được điều chỉnh,các mục tiêu tăng trưởng kinh tế đã được gắn liền với các mục tiêu về đảm bảocông bằng xã hội, đặc biệt là giảm nghèo đói. Vào đầu những năm 80 – Thế kỷ 20,khi môi trường bị hủy hoại với mức độ ngày càng nghiêm trọng và có nhiều dấuhiệu cho thấy sự xuống cấp của môi trường gây ra những trở ngại cho quá trìnhtăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường đã trở thành mục tiêu thứ ba của phát triển.Như vậy, khái niệm phát triển bền vững giờ đây bao hàm ba bộ phận có quan hệtương hỗ với nhau, đó là: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môitrường. Tính bền vững của từng bộ phận thể hiện ở những điểm sau:• Tính bền vững về kinh tế thể hiện ở sự tăng trưởng và sự phát triển lành mạnhcủa nền kinh tế, đáp ứng đ ược yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránhđược sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, nhất là tình trạng nợ nần chồngchất mà nhiều nước hiện nay đang mắc phải.• Tính bền vững về xã hội thể hiện ở việc giảm đói nghèo, đảm bảo công bằng xãhội, đảm bảo cho đại đa số người dân được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khỏe,được tiếp cận với giáo dục, duy trì sự ổn định về an ninh, nâng cao mức hưởng thụcủa người dân về văn hóa, tinh thần…• Tính bên vững về môi trường thể hiện ở việc sử dụng hợp lý các nguồn tàinguyên thiên nhiên, bảo tồn được sự đa dạng sinh học, hạn chế ô nhiễm môitrường, từng bước cải thiện môi trường sinh thái…2. Phát triển bền vững là con đường tất yếu của Việt Nam.Phát triển suy cho cùng là nhằm nâng cao phúc lợi của con người cả về vật chấtlẫn tinh thần. Mục tiêu phát triển ở nước ta là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội côngbằng, dân chủ và văn minh” đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra. Chỉ có phát triểnbền vững trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môitrường, trong đó phát triển kinh tế vẫn phải đ ược coi là trọng tâm trong giai đoạnhiện nay, mới có thể đạt được mục tiêu cao nhất này.Trong phát triển kinh tế thì hệ thống pháp luật về kinh tế luôn có vai trò vô cùng tolớn. Nhận thức được tầm quan trọng này, từ cuối những năm 1980 đến nay, việckhông ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế luôn làmối quan tâm lớn, thường xuyên và là một trong những chủ trương quan trọng củaĐảng và Nhà nước ta. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định phải “đổimới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách vàthủ tục hành chính để phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất,kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau”(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu to àn quốc lần thứ IX, NXBChính trị Quốc gia, trang 188).Lĩnh vực pháp luật dân sự – kinh tế được Nhà nước đặc biệt quan tâm, cả về sốlượng văn bản cũng như nội dung thể hiện. Những sửa đổi cơ bản về chế độ kinhtế trong Hiến pháp 1992, sự ra đời của Bộ luật Dân sự với 838 điều c ùng với cácvăn bản pháp luật quan trọng khác như Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Doanhnghiệp, Bộ Luật Hàng hải, Luật Hàng không dân d ...

Tài liệu được xem nhiều: