Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII) - Góc nhìn từ mục tiêu phát triển đất nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 608.96 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết "Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII) - Góc nhìn từ mục tiêu phát triển đất nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0" tập trung phân tích tính chất, phương pháp đo lường và thực tế sử dụng chỉ số ĐMST toàn cầu (Global Innovation Index – GII) trong phân tích và báo cáo tăng trưởng, đồng thời lập luận cho sự phù hợp của chỉ số này với tư cách là một thước đo về ĐMST ở tầm quốc gia cho một nền kinh tế. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung bài viết!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII) - Góc nhìn từ mục tiêu phát triển đất nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 CHỈ SỐ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO TOÀN CẦU (GLOBAL INNOVATION INDEX - GII) - GÓC NHÌN TỪ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 PGS.TS Vũ Cương Ths. NCS Ngô Quốc Dũng Trường Đại học Kinh tế quốc dân Tóm tắt Đổi mới sáng tạo (ĐMST) là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặt trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì vai trò của ĐMST lại càng quan trọng, vì về bản chất, ĐMST cũng là hạt nhân của cuộc cách mạng này. Vì thế, cần thiết phải đưa các chỉ số đo lường mức độ ĐMST của quốc gia vào hệ tiêu chí đánh giá một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hiện nay, có nhiều đề xuất khác nhau về việc lựa chọn chỉ số nào thể hiện được yêu cầu này. Bài viết tập trung phân tích tính chất, phương pháp đo lường và thực tế sử dụng chỉ số ĐMST toàn cầu (Global Innovation Index – GII) trong phân tích và báo cáo tăng trưởng, đồng thời lập luận cho sự phù hợp của chỉ số này với tư cách là một thước đo về ĐMST ở tầm quốc gia cho một nền kinh tế. Bài viết gồm 4 phần. Phần thứ nhất tóm tắt về cách hiểu và vai trò của ĐMST trong phát triển kinh tế, đặc biệt với bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Phần thứ hai đi sâu phân tích bản chất, phương pháp đo lường và cách sử dụng chỉ số này trong phân tích tăng trưởng. Phần thứ ba trình bày việc sử dụng chỉ số này trong phân tích so sánh ĐMST của Việt Nam với các quốc gia khác. Cuối cùng, bài viết đưa ra những luận cứ để đề xuất sử dụng GII như một chỉ số cần thiết trong hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ khoá: Đổi mới sáng tạo, GII, năng lực cạnh tranh, cách mạng công nghiệp 4.0 1. Đổi mới sáng tạo và vai trò của đổi mới sáng tạo trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 1.1. Đổi mới sáng tạo Đổi mới sáng tạo (ĐMST) (Innovation) mới chỉ xuất hiện trong từ điển thuật ngữ thế giới vào nửa đầu thế kỷ thứ 20, với hàm ý hướng đến đánh giá sự tiến bộ của khoa học công nghệ (KHCN) và những tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế nói riêng và quá trình phát triển nói chung của một quốc gia. Theo Joseph Schumpeter (1934), ĐMST được chia ra thành 5 loại bao gồm: (i) đưa ra sản phẩm mới; (ii) đưa ra các phương pháp sản xuất mới; (iii) mở ra thị trường mới; (iv) phát triển các nguồn 119 mới cung cấp vật liệu thô hay các loại đầu vào mới khác; (v) tạo ra cấu trúc thị trường mới trong một ngành. Schumpeter đã đặt nền móng cho một ngành khoa học nghiên cứu về ĐMST, một lĩnh vực đã và đang phát triển rực rỡ cho đến ngày nay. ĐMST được định nghĩa là việc đưa ra một sản phẩm (hàng hóa hoặc dịch vụ) mới hoặc một sản phẩm được cải tiến đáng kể, hoặc đưa ra và thực hiện qui trình công nghệ mới, phương pháp tiếp thị mới, một phương pháp tổ chức mới trong hoạt động kinh doanh, trong tổ chức nơi làm việc hoặc trong quan hệ với bên ngoài (OECD, 2005). ĐMST thường cần tới nhiều loại hoạt động, không chỉ nghiên cứu và phát triển (R&D), mà còn những hoạt động khác như thay đổi về tổ chức, đào tạo, kiểm nghiệm, tiếp thị và đặc biệt là thiết kế. Hệ thống ĐMST coi ĐMST là trung tâm, là kết quả của học hỏi mang tính tương tác, qua tích lũy, xây dựng năng lực chuyên môn, qua học hỏi dựa trên khoa học và học hỏi dựa trên kinh nghiệm. Hệ thống ĐMST chú trọng đến việc khai thông, tăng cường tương tác giữa các thực thể, phát triển những thể chế hỗ trợ cho tương tác học hỏi, phát triển môi trường thân thiện cho ĐMST, tăng khả năng ứng phó, đáp ứng của hệ thống trước những cơ hội, hay thay đổi. Lundvall, Chaminade và Vang (2011) đề xuất định nghĩa về hệ thống ĐMST quốc gia như sau: “Hệ thống ĐMST quốc gia là một hệ thống mở, tiến hóa và phức tạp, bao gồm những quan hệ bên trong mỗi tổ chức và giữa các tổ chức, thể chế và cấu trúc kinh tế - xã hội, qui định tốc độ và đường hướng đổi mới cũng như việc xây dựng năng lực chuyên môn xuất phát từ quá trình học hỏi dựa trên khoa học và học hỏi dựa trên kinh nghiệm”. 1.2. Vai trò của đổi mới sáng tạo trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 Ngay từ Adam Smith (1776) đã khẳng định ĐMST có mối quan hệ mật thiết với tăng trưởng kinh tế, trong đó ĐMST là nguồn quan trọng của tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặc biệt trong quá trình toàn cầu hoá, các quốc gia có nền kinh tế mới nổi muốn bắt kịp các quốc gia đi trước thì chỉ có thể dựa vào sức mạnh của ĐMST. Khi phân tích về trường hợp của Nhật Bản, Christopher Freeman (1987) đã khẳng định: “nhìn tổng thể, tăng cường ĐMST giúp các quốc gia phát huy tối đa khả năng phát triển kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh có sẵn của quốc gia mình. Đồng thời, trong giai đoạn có nhiều thách thức và cơ hội, việc tăng cường ĐMST sẽ giúp một nền kinh tế vĩ mô có thể phát triển bền vững, lành mạnh và bắt kịp với sự phát triển toàn cầu”. 120 Vai trò của ĐMST đối với tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia càng trở nên quan trong hơn khi đặt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0. CMCN 4.0 có khả năng làm thay đổi triệt để cách sống, quan hệ và làm việc trong xã hội. Cuộc cách mạng này vượt xa những tiến bộ đạt được trong ba cuộc CMCN trước đó, bởi lẽ “…cơ khí hoá, điện khí hoá, tin học hoá và lúc này cả yếu tố vốn và con người thuần tuý không còn đóng vai trò quan trọng mà trái lại, tính ĐMST từ con người và ứng dụng tính ĐMST… sẽ làm thay đổi toàn bộ mọi mặt của nền công nghiệp và nền kinh tế hiện hữu với tốc độ vô cùng nhanh chóng”. (Nguyễn Trọng Hoài, 2017). Tóm lại, tăng trưởng trong nền kinh tế hiện đại sẽ phụ thuộc rất lớn vào khả năng theo đuổ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII) - Góc nhìn từ mục tiêu phát triển đất nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 CHỈ SỐ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO TOÀN CẦU (GLOBAL INNOVATION INDEX - GII) - GÓC NHÌN TỪ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 PGS.TS Vũ Cương Ths. NCS Ngô Quốc Dũng Trường Đại học Kinh tế quốc dân Tóm tắt Đổi mới sáng tạo (ĐMST) là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặt trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì vai trò của ĐMST lại càng quan trọng, vì về bản chất, ĐMST cũng là hạt nhân của cuộc cách mạng này. Vì thế, cần thiết phải đưa các chỉ số đo lường mức độ ĐMST của quốc gia vào hệ tiêu chí đánh giá một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hiện nay, có nhiều đề xuất khác nhau về việc lựa chọn chỉ số nào thể hiện được yêu cầu này. Bài viết tập trung phân tích tính chất, phương pháp đo lường và thực tế sử dụng chỉ số ĐMST toàn cầu (Global Innovation Index – GII) trong phân tích và báo cáo tăng trưởng, đồng thời lập luận cho sự phù hợp của chỉ số này với tư cách là một thước đo về ĐMST ở tầm quốc gia cho một nền kinh tế. Bài viết gồm 4 phần. Phần thứ nhất tóm tắt về cách hiểu và vai trò của ĐMST trong phát triển kinh tế, đặc biệt với bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Phần thứ hai đi sâu phân tích bản chất, phương pháp đo lường và cách sử dụng chỉ số này trong phân tích tăng trưởng. Phần thứ ba trình bày việc sử dụng chỉ số này trong phân tích so sánh ĐMST của Việt Nam với các quốc gia khác. Cuối cùng, bài viết đưa ra những luận cứ để đề xuất sử dụng GII như một chỉ số cần thiết trong hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ khoá: Đổi mới sáng tạo, GII, năng lực cạnh tranh, cách mạng công nghiệp 4.0 1. Đổi mới sáng tạo và vai trò của đổi mới sáng tạo trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 1.1. Đổi mới sáng tạo Đổi mới sáng tạo (ĐMST) (Innovation) mới chỉ xuất hiện trong từ điển thuật ngữ thế giới vào nửa đầu thế kỷ thứ 20, với hàm ý hướng đến đánh giá sự tiến bộ của khoa học công nghệ (KHCN) và những tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế nói riêng và quá trình phát triển nói chung của một quốc gia. Theo Joseph Schumpeter (1934), ĐMST được chia ra thành 5 loại bao gồm: (i) đưa ra sản phẩm mới; (ii) đưa ra các phương pháp sản xuất mới; (iii) mở ra thị trường mới; (iv) phát triển các nguồn 119 mới cung cấp vật liệu thô hay các loại đầu vào mới khác; (v) tạo ra cấu trúc thị trường mới trong một ngành. Schumpeter đã đặt nền móng cho một ngành khoa học nghiên cứu về ĐMST, một lĩnh vực đã và đang phát triển rực rỡ cho đến ngày nay. ĐMST được định nghĩa là việc đưa ra một sản phẩm (hàng hóa hoặc dịch vụ) mới hoặc một sản phẩm được cải tiến đáng kể, hoặc đưa ra và thực hiện qui trình công nghệ mới, phương pháp tiếp thị mới, một phương pháp tổ chức mới trong hoạt động kinh doanh, trong tổ chức nơi làm việc hoặc trong quan hệ với bên ngoài (OECD, 2005). ĐMST thường cần tới nhiều loại hoạt động, không chỉ nghiên cứu và phát triển (R&D), mà còn những hoạt động khác như thay đổi về tổ chức, đào tạo, kiểm nghiệm, tiếp thị và đặc biệt là thiết kế. Hệ thống ĐMST coi ĐMST là trung tâm, là kết quả của học hỏi mang tính tương tác, qua tích lũy, xây dựng năng lực chuyên môn, qua học hỏi dựa trên khoa học và học hỏi dựa trên kinh nghiệm. Hệ thống ĐMST chú trọng đến việc khai thông, tăng cường tương tác giữa các thực thể, phát triển những thể chế hỗ trợ cho tương tác học hỏi, phát triển môi trường thân thiện cho ĐMST, tăng khả năng ứng phó, đáp ứng của hệ thống trước những cơ hội, hay thay đổi. Lundvall, Chaminade và Vang (2011) đề xuất định nghĩa về hệ thống ĐMST quốc gia như sau: “Hệ thống ĐMST quốc gia là một hệ thống mở, tiến hóa và phức tạp, bao gồm những quan hệ bên trong mỗi tổ chức và giữa các tổ chức, thể chế và cấu trúc kinh tế - xã hội, qui định tốc độ và đường hướng đổi mới cũng như việc xây dựng năng lực chuyên môn xuất phát từ quá trình học hỏi dựa trên khoa học và học hỏi dựa trên kinh nghiệm”. 1.2. Vai trò của đổi mới sáng tạo trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 Ngay từ Adam Smith (1776) đã khẳng định ĐMST có mối quan hệ mật thiết với tăng trưởng kinh tế, trong đó ĐMST là nguồn quan trọng của tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặc biệt trong quá trình toàn cầu hoá, các quốc gia có nền kinh tế mới nổi muốn bắt kịp các quốc gia đi trước thì chỉ có thể dựa vào sức mạnh của ĐMST. Khi phân tích về trường hợp của Nhật Bản, Christopher Freeman (1987) đã khẳng định: “nhìn tổng thể, tăng cường ĐMST giúp các quốc gia phát huy tối đa khả năng phát triển kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh có sẵn của quốc gia mình. Đồng thời, trong giai đoạn có nhiều thách thức và cơ hội, việc tăng cường ĐMST sẽ giúp một nền kinh tế vĩ mô có thể phát triển bền vững, lành mạnh và bắt kịp với sự phát triển toàn cầu”. 120 Vai trò của ĐMST đối với tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia càng trở nên quan trong hơn khi đặt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0. CMCN 4.0 có khả năng làm thay đổi triệt để cách sống, quan hệ và làm việc trong xã hội. Cuộc cách mạng này vượt xa những tiến bộ đạt được trong ba cuộc CMCN trước đó, bởi lẽ “…cơ khí hoá, điện khí hoá, tin học hoá và lúc này cả yếu tố vốn và con người thuần tuý không còn đóng vai trò quan trọng mà trái lại, tính ĐMST từ con người và ứng dụng tính ĐMST… sẽ làm thay đổi toàn bộ mọi mặt của nền công nghiệp và nền kinh tế hiện hữu với tốc độ vô cùng nhanh chóng”. (Nguyễn Trọng Hoài, 2017). Tóm lại, tăng trưởng trong nền kinh tế hiện đại sẽ phụ thuộc rất lớn vào khả năng theo đuổ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu Global Innovation Index (GII) Mục tiêu phát triển đất nước Cách mạng công nghiệp 4.0 Hệ tiêu chí nước công nghiệpGợi ý tài liệu liên quan:
-
Chuyển đổi số trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 - Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Phần 2
471 trang 432 1 0 -
Phát triển công nghệ thông tin theo Nghị quyết đại hội XIII của Đảng
7 trang 315 0 0 -
Đào tạo kiến trúc sư trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
5 trang 291 0 0 -
7 trang 277 0 0
-
Mỹ thuật ứng dụng và công tác đào tạo tiếp cận từ học liệu mở
4 trang 220 0 0 -
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển kỹ năng mềm của sinh viên: Nghiên cứu tại tỉnh Bình Dương
13 trang 218 0 0 -
6 trang 209 0 0
-
12 trang 194 0 0
-
Vai trò của cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong quá trình chuyển đổi số
5 trang 193 0 0 -
Nghiên cứu các nhân tố tác động đến ý định trở thành Freelancer của giới trẻ Hà Nội
12 trang 191 2 0