Danh mục

Chiến lược mua thương hiệu

Số trang: 2      Loại file: pdf      Dung lượng: 114.98 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việc Công ty Cổ phần Kinh Đô mua lại thương hiệu kem Walls cùng toàn bộ nhà máy, dây chuyền sản xuất của nhà máy kem Walls của Tập đoàn Unilever đã được các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đánh giá cao.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chiến lược mua thương hiệu Chiến lược mua thương hiệuViệc Công ty Cổ phần Kinh Đô mua lại thương hiệu kem Walls cùng toàn bộ nhà máy,dây chuyền sản xuất của nhà máy kem Walls của Tập đoàn Unilever đã được các chuyêngia kinh tế trong và ngoài nước đánh giá cao.Nhiều người cho rằng, đây là tín hiệu chứng tỏ các doanh nghiệp nội địa đã tính nhạy béntrong chiến lược kinh doanh, tiếp cận tính chuyên nghiệp trong đầu tư vào thương hiệu.Thực ra, trên thế giới, các hợp đồng mua bán công ty, mua bán thương hiệu hay nhượngquyền sử dụng nhãn hiệu là chuyện thường gặp. Câu chuyện này tuy còn mới ở ViệtNam, nhưng không phải là hiếm có.Công ty Phương Đông đã bán nhãn hiệu kem đánh răng P/S cho Unilever, phía đối tácnước ngoài trong liên doanh nhà máy bia Đông Nam Á mua thương hiệu bia Halida, côngty sản xuất xe máy tư nhân Hoa Lâm mua lại quyền sử dụng thương hiệu động cơ xe máyDealim của Hàn Quốc để tiêu thụ trên thị trường Việt Nam...Rõ ràng là hơn bao giờ hết, sự thua thiệt trong vấn đề thương hiệu đã được các doanhnghiệp Việt Nam đặt lên bàn cân một cách nghiêm túc để đưa ra các chiến lược kinhdoanh hợp lý cho từng thời kỳ phát triển của doanh nghiệp cũng như trước nhưng biếnđộng của thị trường.Tất nhiên, thương hiệu chỉ là bước đầu cho một chiến lược kinh doanh lâu dài. Theo ôngTrần Hữu Huỳnh. Trưởng ban Pháp chế của Phòng Thương mại và Công nghiệp ViệtNam, thương hiệu chưa phải là yếu tố cơ bản. Việc đầu tư vào thương hiệu của doanhnghiệp phải được xem xét trên các yếu tố về năng lực cạnh tranh, chất lượng sản phẩm...,đặc biệt là sự linh hoạt và nhạy bén của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh luônbiến động, ông Huỳnh nói.Có thể lấy sản phẩm cá ba sa của Agifish làm thí dụ. Trước khi thị thương xuất khẩu củasản phẩm này gặp khó khăn thì người tiêu dùng trong nước, đặc biệt là người tiêu dùng ởkhu vực miền bắc không có nhiều thông tin về sản phẩm này. Nhưng ngay sau khi xảy ravụ kiện bán phá giá cá ba sa, sản phẩm này đã xuất hiện một cách khá nhanh chóng vàtiêu thụ có kết quả tại thị trường nội địa.Agifish đã lợi dụng ngay sự nổi tiếng của cá ba sa nhờ sự kiện và đã nhanh chóng mởrộng thị trường nội địa bằng chinh thương hiệu đang sử dụng. Việc lựa chọn chiến lượcquảng bá đúng đắn đã khiến cá ba sa tiếp cận ngay được với người tiêu dùng trong nướcmà không cần phải tìm một thương hiệu mới nào.Về vấn đề này, bà Phạm Chi Lan, thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủcho rằng, với những doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho những thịtrường mới, dù đó là trong nước hay nước ngoài, thì cách thức tiếp cận với thương hiệukhông phải là một lối mòn.Việc mua bán thương hiệu là một chiến lược cần được các doanh nghiệp tính toán cẩntrọng. Mua quyền sử dụng các thương hiệu lớn thường có giá thành rất cao. Đặc biệt,gần với các hợp đồng mua bán này thường có những điều kiện kèm theo, như mua cácsản phẩm của doanh nghiệp bán thương hiệu..., bà Chi Lan nói.Chính vì vậy, đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc tham gia vào một chuỗi các dâychuyền sản xuất hoặc tiêu thụ sản phẩm của những thương hiệu đã nổi tiếng có thể là lốiđi tắt hợp sức hơn.Các doanh nghiệp song song đạt được hai mục tiêu, đó là vừa được mang thương hiệu nổitiếng với chi phí thấp hơn, vừa khẳng định được chất lượng hàng hóa, uy tín của doanhnghiệp mình chính nhờ vào thương hiệu đó.Đặc biệt, các doanh nghiệp tại các làng nghề truyền thống như Bát Tràng, Phú Quốc... cóthể chọn hình thức chung sức trong việc xây dựng và sử dụng thương hiệu mang tên tuổicủa làng nghề. Với cách làm này, chi phí để xây dựng, quảng bá thương hiệu sẽ tiết kiệmrất nhiều và đạt hiệu quả cao.Tất nhiên, thành công của thương hiệu chung phụ thuộc rất nhiều vào sự gắn kết, hợp sứccủa các doanh nghiệp trong các bước từ giám sát chất lượng sản phẩm, thực hiện các camkết về giao dịch..., đến xây dựng chiến lược.Song, đây lại là điểm yếu của các doanh nghiệp VN. Rất nhiều chuyên gia kinh tế đã thừanhận rằng, các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề nhìn nhau với con mắt của đối thủcạnh tranh nhiều hơn là đối tác hợp tác kinh doanh.Chính vì vậy, sự tích cực trong việc liên kết các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề hầunhư không được các doanh nghiệp Việt Nam khai thác. Theo ông Trần Hữu Huỳnh: Cácdoanh nghiệp Việt Nam cần phải thay đổi thói quen đó để tham gia vào các tổ chức mangtính cộng đồng nhiều hơn vì chính sự liên kết là công cụ hiệu quả giúp các doanh nghiệpvừa và nhỏ trên thế giới đứng vững trong cạnh tranh toàn cầu.

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: