Chiến thuật điều trị viêm gan B mạn – Phần 1
Số trang: 16
Loại file: pdf
Dung lượng: 169.81 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đã có những tiến bộ lớn về bệnh viêm gan B từ các nghiên cứu gần đây về diễn tiến tự nhiên của bệnh cũng như từ các thử nghiệm lâm sàng của các thuốc kháng virus. REVEAL, một nghiên cứu dài hơn một thập niên về vài ngàn bệnh nhân viêm gan virus B với kháng nguyên bề mặt (HBsAg) dương tính ở người trưởng thành Đài Loan, đã chứng minh rằng mức độ HBV DNA ban đầu ở những người mang HBsAg trong độ tuổi từ 30-65 tuổi có liên quan trực tiếp đến khả năng phát...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chiến thuật điều trị viêm gan B mạn – Phần 1 Chiến thuật điều trị viêm gan B mạn – Phần 1I.GIỚI THIỆU:Đã có những tiến bộ lớn về bệnh viêm gan B từ các nghiên cứu gần đây về diễntiến tự nhiên của bệnh cũng như từ các thử nghiệm lâm sàng của các thuốc khángvirus. REVEAL, một nghiên cứu dài hơn một thập niên về vài ngàn bệnh nhânviêm gan virus B với kháng nguyên bề mặt (HBsAg) dương tính ở người trưởngthành Đài Loan, đã chứng minh rằng mức độ HBV DNA ban đầu ở những ngườimang HBsAg trong độ tuổi từ 30-65 tuổi có liên quan trực tiếp đến khả năng pháttriển ung thư biểu mô tế bào gan nguyên phát và xơ gan 10 năm sau. Các nghiêncứu khác đã đi đến kết luận tương tự . Về vấn đề điều trị, nó đã được chứng minhrằng ức chế virus lâu dài làm giảm tỷ lệ các kết cục xấu lâm sàng , đặc biệt là ởbệnh nhân xơ hóa tiến triển . Điều quan trọng chắc chắn cho rằng việc tiếp tục ứcchế virus vẫn có lợi cho dù sự xuất hiện đề kháng làm giảm giá trị điều trị.Những nghiên cứu diễn tiến tự nhiên và điều trị lâm sàng này đã dẫn đến xuất hiệnmột khái niệm đơn giản nhưng sâu sắc là hai vấn đề song hành của điều trị viêmgan B : sự sử dụng lâu dài thuốc ức chế virus và việc tránh xuất hiện đề kháng.Nguyên lý phù hợp là với sự ức chế virus hoàn toàn tạo nên lợi ích lâm sang tốiđa, và lượng virus trong máu còn sót lại tại các thời điểm trong khi điều trị với mộtsố thuốc chống virs bằng đường uống đã được chứng minh làm tăng nguy cơ đềkháng với điều trị, và điều này có khả năng ảnh hưởng đến kết quả bệnh nhân .Các trang bị y tế điều trị phát triển đối với virus viêm gan B (HBV) khiến nó ngàycàng tốt để đạt được mục tiêu kép là ức chế virus lâu dài và tránh sự đề khángtrong phần lớn các bệnh nhân. Tính sẵn có hiện tại của 4 chất t ương tựnucleos(t)ide, với những chất khác, cùng với interferon tiêu chuẩn vàpeginterferon, cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng nhiều tùy chọn điều trị cho bệnhnhân của họ. Tuy nhiên, khoảng rộng các lựa chọn điều trị này tạo ra thách thứcđối với bác sĩ lâm sang, người phải lựa chọn thuốc điều trị thích hợp điều trị chobệnh nhân mà việc điều trị được chỉ định. Quyết định điều trị ban đầu liên quanđến sự lựa chọn giữa một chế độ interferon alfa chuẩn đã được công nhận hoặcthuốc bằng đường uống được chấp thuận. Nếu một loại thuốc uống đ ược chọn, cáccâu hỏi khác theo sau, chẳng hạn như có thuốc được dùng và liệu sự kết hợp trịliệu có thể đem lại bất kỳ lợi ích bổ sung nào không.Quyết định đối với điều trị ban đầu là không tránh khỏi bị ràng buộc với câu hỏirằng liệu điều trị có thể ngừng lại không và nếu có thì khi nào. Câu trả lời yêu cầuviệc xem xét mục tiêu điều trị mong muốn đã đạt được không và, điều quan trọngtương đương là mục tiêu này và những lợi ích lâm sàng liên quan với nó có thểđược duy trì không nếu việc điều trị được ngừng lại. Ngoài ra, quản lý bệnh nhânđiều trị viêm gan B nên được coi là một quá trình động của việc đánh giá liên tụccác thông số đáp ứng để đảm bảo đạt được tối ưu mục tiêu kép của ức chế viruslâu dài và tránh đề kháng. Những công bố gần đây đã cố gắng thiết lập những mốcđiều trị tại một số thời điểm quan trọng trong quá trình điều trị, trong trường hợpkhông đạt được tiêu chuẩn đó, quyết định những thay đổi chủ động trong điều trị.Các chỉ số của đáp ứng khác nhau đối với các thuốc kháng virus khác nhau nh ưchức năng các đặc tính: hàng rào di truyền cho đến đề kháng.Điều này chỉ ra các câu hỏi: thuốc nào được lựa chọn, khi nào thực hiện thay đổitrong điều trị, và khi nào ngừng điều trị ở những bệnh nhân đã được lựa chọn chođiều trị HBV. Nhiều sự tranh cãi kéo dài đối với câu hỏi ở những bệnh nhân nàotrong điều trị, đó là một chủ đề quan trọng đ ược thực hiện bởi Anna SF Lok, MD,trong Điều trị viêm gan B mãn tính: Ai sẽ điều trị và Khi nào điều trị?II.CHỌN ĐIỀU TRỊ NÀO?Thách thức đầu tiên cần đối mặt của một người lâm sang, người lập kế hoạch đểđiều trị một bệnh nhân viêm gan B mãn là thuốc nào được lựa chọn. Các thuốcđược công nhận tại Hoa Kỳ cho HBV có thể được phân thành 2 nhóm, điều trịinterferon alfa chuẩn và điều trị bằng các nucleos(t)ide uống như bên dưới: Interferons Interferon alfa-2b o Peginterferon alfa-2a o Nucleos (t) ide Adefovir o entecavir o Lamivudine o Telbivudine oA.Điều trị Interferon alfa chuẩnMặc dù interferon alfa-2b đã được chấp thuận cho điều trị viêm gan B vào năm1991 , nhưng tại thời điểm hiện nay tại Hoa Kỳ, việc điều trị interferon đ ược ưachuộng là peginterferon alfa-2a vì tiện lợi sử dụng. Peginterferon alfa-2a đượcchấp thuận cho điều trị viêm gan B ở liều 180 µg / tuần trong 1 năm, dựa trên 2nghiên cứu chủ chốt . Ở những bệnh nhân HBeAg dương tính, điều trị bằnginterferon có thể được mong muốn đem lại sự chuyển đổi huyết thanh HBeAgtrong khoảng 30% các cá nhân sau 1 năm điều trị - một tỷ lệ cao hơn đáng kể sovới 12% đến 23% được thấy với 1 năm điều trị bằng thuốc uống. Chống lại lợi thếnày, tuy nhiên, là tỉ lệ gia tăng được tích lũy của chuyển đảo ngược HBeAg huyếtthanh với điều trị kéo dài thuốc uống (các tỉ lệ tăng đến ~ 30% sau 2 năm điều trịvà hơn 40% sau 3 năm điều trị. Thậm chí giả định rằng việc sử dụng kéo dài hơninterferon sẽ dẫn tới tỷ lệ đáp ứng cao hơn, quá trình dùng nó và các triệu chứngbất lợi làm cho việc sử dụng duy trì nó dài hơn 1 năm có vấn đề. Do đó, các bác sĩlâm sàng có thể kết luận hợp lý rằng tốt hơn là sử dụng điều trị bằng đường uốngtrong 2-3 năm, hoặc thậm chí lâu hơn, hoặc interferon trong 1 năm.Một ưu điểm được coi là ưu thế của interferon là khả năng đạt được mục tiêu mấtHBsAg hoặc chuyển đổi huyết thanh HBsAg trong 3% đến 8% của những bệnhnhân có kháng nguyên e viêm gan B (HBeAg) dương tính sau 1 ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chiến thuật điều trị viêm gan B mạn – Phần 1 Chiến thuật điều trị viêm gan B mạn – Phần 1I.GIỚI THIỆU:Đã có những tiến bộ lớn về bệnh viêm gan B từ các nghiên cứu gần đây về diễntiến tự nhiên của bệnh cũng như từ các thử nghiệm lâm sàng của các thuốc khángvirus. REVEAL, một nghiên cứu dài hơn một thập niên về vài ngàn bệnh nhânviêm gan virus B với kháng nguyên bề mặt (HBsAg) dương tính ở người trưởngthành Đài Loan, đã chứng minh rằng mức độ HBV DNA ban đầu ở những ngườimang HBsAg trong độ tuổi từ 30-65 tuổi có liên quan trực tiếp đến khả năng pháttriển ung thư biểu mô tế bào gan nguyên phát và xơ gan 10 năm sau. Các nghiêncứu khác đã đi đến kết luận tương tự . Về vấn đề điều trị, nó đã được chứng minhrằng ức chế virus lâu dài làm giảm tỷ lệ các kết cục xấu lâm sàng , đặc biệt là ởbệnh nhân xơ hóa tiến triển . Điều quan trọng chắc chắn cho rằng việc tiếp tục ứcchế virus vẫn có lợi cho dù sự xuất hiện đề kháng làm giảm giá trị điều trị.Những nghiên cứu diễn tiến tự nhiên và điều trị lâm sàng này đã dẫn đến xuất hiệnmột khái niệm đơn giản nhưng sâu sắc là hai vấn đề song hành của điều trị viêmgan B : sự sử dụng lâu dài thuốc ức chế virus và việc tránh xuất hiện đề kháng.Nguyên lý phù hợp là với sự ức chế virus hoàn toàn tạo nên lợi ích lâm sang tốiđa, và lượng virus trong máu còn sót lại tại các thời điểm trong khi điều trị với mộtsố thuốc chống virs bằng đường uống đã được chứng minh làm tăng nguy cơ đềkháng với điều trị, và điều này có khả năng ảnh hưởng đến kết quả bệnh nhân .Các trang bị y tế điều trị phát triển đối với virus viêm gan B (HBV) khiến nó ngàycàng tốt để đạt được mục tiêu kép là ức chế virus lâu dài và tránh sự đề khángtrong phần lớn các bệnh nhân. Tính sẵn có hiện tại của 4 chất t ương tựnucleos(t)ide, với những chất khác, cùng với interferon tiêu chuẩn vàpeginterferon, cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng nhiều tùy chọn điều trị cho bệnhnhân của họ. Tuy nhiên, khoảng rộng các lựa chọn điều trị này tạo ra thách thứcđối với bác sĩ lâm sang, người phải lựa chọn thuốc điều trị thích hợp điều trị chobệnh nhân mà việc điều trị được chỉ định. Quyết định điều trị ban đầu liên quanđến sự lựa chọn giữa một chế độ interferon alfa chuẩn đã được công nhận hoặcthuốc bằng đường uống được chấp thuận. Nếu một loại thuốc uống đ ược chọn, cáccâu hỏi khác theo sau, chẳng hạn như có thuốc được dùng và liệu sự kết hợp trịliệu có thể đem lại bất kỳ lợi ích bổ sung nào không.Quyết định đối với điều trị ban đầu là không tránh khỏi bị ràng buộc với câu hỏirằng liệu điều trị có thể ngừng lại không và nếu có thì khi nào. Câu trả lời yêu cầuviệc xem xét mục tiêu điều trị mong muốn đã đạt được không và, điều quan trọngtương đương là mục tiêu này và những lợi ích lâm sàng liên quan với nó có thểđược duy trì không nếu việc điều trị được ngừng lại. Ngoài ra, quản lý bệnh nhânđiều trị viêm gan B nên được coi là một quá trình động của việc đánh giá liên tụccác thông số đáp ứng để đảm bảo đạt được tối ưu mục tiêu kép của ức chế viruslâu dài và tránh đề kháng. Những công bố gần đây đã cố gắng thiết lập những mốcđiều trị tại một số thời điểm quan trọng trong quá trình điều trị, trong trường hợpkhông đạt được tiêu chuẩn đó, quyết định những thay đổi chủ động trong điều trị.Các chỉ số của đáp ứng khác nhau đối với các thuốc kháng virus khác nhau nh ưchức năng các đặc tính: hàng rào di truyền cho đến đề kháng.Điều này chỉ ra các câu hỏi: thuốc nào được lựa chọn, khi nào thực hiện thay đổitrong điều trị, và khi nào ngừng điều trị ở những bệnh nhân đã được lựa chọn chođiều trị HBV. Nhiều sự tranh cãi kéo dài đối với câu hỏi ở những bệnh nhân nàotrong điều trị, đó là một chủ đề quan trọng đ ược thực hiện bởi Anna SF Lok, MD,trong Điều trị viêm gan B mãn tính: Ai sẽ điều trị và Khi nào điều trị?II.CHỌN ĐIỀU TRỊ NÀO?Thách thức đầu tiên cần đối mặt của một người lâm sang, người lập kế hoạch đểđiều trị một bệnh nhân viêm gan B mãn là thuốc nào được lựa chọn. Các thuốcđược công nhận tại Hoa Kỳ cho HBV có thể được phân thành 2 nhóm, điều trịinterferon alfa chuẩn và điều trị bằng các nucleos(t)ide uống như bên dưới: Interferons Interferon alfa-2b o Peginterferon alfa-2a o Nucleos (t) ide Adefovir o entecavir o Lamivudine o Telbivudine oA.Điều trị Interferon alfa chuẩnMặc dù interferon alfa-2b đã được chấp thuận cho điều trị viêm gan B vào năm1991 , nhưng tại thời điểm hiện nay tại Hoa Kỳ, việc điều trị interferon đ ược ưachuộng là peginterferon alfa-2a vì tiện lợi sử dụng. Peginterferon alfa-2a đượcchấp thuận cho điều trị viêm gan B ở liều 180 µg / tuần trong 1 năm, dựa trên 2nghiên cứu chủ chốt . Ở những bệnh nhân HBeAg dương tính, điều trị bằnginterferon có thể được mong muốn đem lại sự chuyển đổi huyết thanh HBeAgtrong khoảng 30% các cá nhân sau 1 năm điều trị - một tỷ lệ cao hơn đáng kể sovới 12% đến 23% được thấy với 1 năm điều trị bằng thuốc uống. Chống lại lợi thếnày, tuy nhiên, là tỉ lệ gia tăng được tích lũy của chuyển đảo ngược HBeAg huyếtthanh với điều trị kéo dài thuốc uống (các tỉ lệ tăng đến ~ 30% sau 2 năm điều trịvà hơn 40% sau 3 năm điều trị. Thậm chí giả định rằng việc sử dụng kéo dài hơninterferon sẽ dẫn tới tỷ lệ đáp ứng cao hơn, quá trình dùng nó và các triệu chứngbất lợi làm cho việc sử dụng duy trì nó dài hơn 1 năm có vấn đề. Do đó, các bác sĩlâm sàng có thể kết luận hợp lý rằng tốt hơn là sử dụng điều trị bằng đường uốngtrong 2-3 năm, hoặc thậm chí lâu hơn, hoặc interferon trong 1 năm.Một ưu điểm được coi là ưu thế của interferon là khả năng đạt được mục tiêu mấtHBsAg hoặc chuyển đổi huyết thanh HBsAg trong 3% đến 8% của những bệnhnhân có kháng nguyên e viêm gan B (HBeAg) dương tính sau 1 ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chuyên ngành y khoa tài liệu y khoa lý thuyết y học giáo trình y học bài giảng y học bệnh lâm sàng chuẩn đoán bệnhGợi ý tài liệu liên quan:
-
38 trang 150 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 148 0 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 143 0 0 -
Bài giảng Kỹ thuật IUI – cập nhật y học chứng cứ - ThS. BS. Giang Huỳnh Như
21 trang 143 1 0 -
Bài giảng Tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu - TS. Nguyễn Viết Kình
93 trang 143 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 117 0 0 -
40 trang 94 0 0
-
Bài giảng Chẩn đoán và điều trị tắc động mạch ngoại biên mạn tính - TS. Đỗ Kim Quế
74 trang 88 0 0 -
Bài giảng Thoát vị hoành bẩm sinh phát hiện qua siêu âm và thái độ xử trí
19 trang 84 0 0 -
40 trang 63 0 0