Danh mục

Chính sách khoan hồng - [1]

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 153.38 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng giữa các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường được mỗi quốc gia quy định dưới một góc độ khác nhau, tuy nhiên, các nước đều thống nhất về mối nguy hại mà các hành vi này gây ra cho xã hội. Trong kết luận về hành vi này tại Bản giới thiệu 1998 của Hội đồng hành động hiệu quả đối phó với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) nhận định “Thỏa thuận...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chính sách khoan hồng - [1] Chính sách khoan hồng - [1] Các thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng giữa các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường được mỗi quốc gia quy định dưới một góc độ khác nhau, tuy nhiên, các nước đều thống nhất về mối nguy hại mà các hành vi này gây ra cho xã hội. * * Trong kết luận về hành vi này tại Bản giới thiệu 1998 của Hội đồng hành động hiệu quả đối phó với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) nhận định “Thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng là hành vi vi phạm nghiêm trọng Luật Cạnh tranh”. Hành vi này bao gồm “các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường nhằm ấn định giá, hạn chế nguồn cung của sản phẩm, thông đồng đấu thầu và phân chia thị trường tiêu thụ”, “gây thiệt hại cho người tiêu dùng ở nhiều quốc gia bằng cách tăng giá thành sản phẩm và hạn chế nguồn cung”. Các hành vi này làm “sai lệch thương mại thế giới” bằng cách tạo ra “sức mạnh thị trường, làm lãng phí và giảm hiệu quả của môi trường kinh doanh”[2]. Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận thông đồng với nhau một cách bí mật. Trong một số trường hợp, họ phác thảo các kế hoạch phối hợp hành động kỹ lưỡng, nhằm che giấu các thỏa thuận thông đồng bên trong. Khi cơ quan cạnh tranh bắt đầu nhận thấy dấu hiệu của một vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và ra quyết định điều tra sơ bộ thì những doanh nghiệp này không sẵn sàng hợp tác. Thực tế cho thấy rằng, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh l à một dạng hành vi có tính khác biệt so với các hành vi hạn chế cạnh tranh khác, do vậy, để đưa các vụ việc này ra ánh sáng, cần có các biện pháp điều tra đặc biệt tương ứng. Trong thời gian gần đây, các cơ quan cạnh tranh ở nhiều n ước đã chú trọng cải tiến các biện pháp điều tra để việc điều tra có hiệu quả và thực tế đã đạt được một số kết quả quan trọng, tuy nhiên trên bình diện chung, việc đối phó với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Thành công của một cuộc điều tra vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bắt nguồn chủ yếu từ việc thu thập được các thông tin từ phía “người trong cuộc” - các bên tham gia thỏa thuận. Trên cơ sở đó, một trong những nhiệm vụ khó khăn của cơ quan cạnh tranh là làm thế nào thu hút được sự hợp tác từ chính các bên trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thông thường, nếu không được hưởng lợi thì các doanh nghiệp kinh doanh hiếm khi hợp tác với các cơ quan cạnh tranh, tuy nhiên, một trong những cách động viên họ cung cấp các thông tin là cam kết sẽ miễn hoặc giảm các chế tài mà họ có thể bị áp dụng trong quá trình tố tụng. Hầu như các nuớc trên thế giới đều quy định về chế định giảm hình phạt (thông thường là phạt tiền trên cơ sở doanh thu) khi doanh nghiệp kinh doanh hoặc cá nhân hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình điều tra vụ việc. Trong những năm gần đây, việc khuyến khích sự hợp tác của “người trong cuộc” đã có những bước tiến quan trọng - và được xây dựng thành “chính sách khoan hồng”. ủy ban cạnh tranh của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã có những nghiên cứu cụ thể về các quy định trong chính sách khoan hồng và vào năm 2001, tổ chức này đã ban hành Bản báo cáo nghiên cứu về chính sách khoan hồng đối phó với các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không được hưởng miễn trừ[3]. Những điểm cơ bản của bản báo cáo là:* Về cơ bản, một chính sách khoan hồng cam kết cho duy nhất doanh nghiệp hoặc cá nhân đầu tiên hợp tác đầy đủ với các cơ quan điều tra vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh một cơ chế ân xá hoặc miễn trừ các chế tài đối với hành vi vi phạm mà họ đã thực hiện. Thực tế cho thấy rằng, một chính sách khoan hồng được cơ cấu hợp lý có thể làm tăng đáng kể tỷ lệ thành công trong nỗ lực chống lại các thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh. Trong trường hợp các bên tham gia thỏa thuận nhận thấy rằng, họ có khả năng phải đối mặt với các chế tài nghiêm khắc do hành vi vi phạm của họ và xuất hiện những quan ngại về tính bền vững của thỏa thuận ngầm, đồng thời, họ nhận thức được chỉ có người đầu tiên hợp tác với cơ quan điều tra mới có thể nhận được lợi ích đầy đủ nhất từ chính sách khoan hồng, thì lúc này chính sách khoan hồng sẽ phát huy hiệu quả khuyến khích tối đa trong việc loại bỏ được các vụ thông đồng. Trong những năm gần đây, chính sách này đã mang lại rất nhiều thành công trong quá trình điều tra các vụ thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh có quy mô lớn, gây chú ý của dư luận. Hoa Kỳ và ủy ban Châu Âu đã áp dụng rất thành công chính sách này, và nếu không áp dụng chính sách n ày thì còn rất nhiều vụ việc gây hạn chế cạnh tranh lớn không bị lôi ra ánh sáng. Hoa Kỳ là nước đầu tiên trên thế giới đưa ra chính sách khoan hồng và áp dụng trong cùng năm 1978. Trong một thời gian dài, nước này đã chủ động khởi tố các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dưới dạng tội phạm, các cá nhân và doanh nghiệp tham gia thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng đều bị coi là đối tượng áp dụng hình phạt, thậm chí riêng cá nhân còn bao gồm cả hình phạt tù (hiện nay thời hạn tương đối ngắn và không áp dụng phổ biến). Các cá nhân hợp tác với cơ quan điều tra cũng có thể nhận được sự miễn trừ hoặc giảm nhẹ hình phạt, tuy nhiên những lợi ích mà cá nhân được hưởng không thể so sánh được với lợi ích mà một doanh nghiệp có được, nếu họ tự nguyện hợp tác với vai tr ò một thực thể độc lập. Năm 1978, tại Hoa Kỳ, chính sách này được áp dụng như một dạng cơ hội dành cho các doanh nghiệp, đặc biệt chương trình còn quy định Bộ Tư pháp phải xem xét loại bỏ các hình phạt đối với doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà tự thú và hợp tác điều tra trong trường hợp Bộ Tư pháp chưa nắm bắt được thông tin về vụ việc này.* Tuy nhiên, một chương trình mới mẻ chắc chắn không thể mang lại thành công ngay lập tức. Trong suốt 15 năm sau ...

Tài liệu được xem nhiều: