Thông tin tài liệu:
Chính sách tiền lương và thu nhập của người lao động luôn là vấn đề được dư luận quan
tâm. Trong thời gian gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng thường đề cập đến
quyết định tăng lương cho người lao động trong khu vực Nhà nước. Tuy thời gian thực
hiện chính sách cải cách tiền lương đã hơn 10 năm nhưng chính sách này chưa thực sự
có tác động mạnh đến việc cải thiện thu nhập cho người lao động. Nội dung bài viết này
xoay quanh việc đánh giá chính sách tiền lương đã và đang được áp dụng......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chính sách tiền lương và vấn đề thu nhập của người lao động trong khu vực Nhà nước”
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Học kỳ thu
Niên khoá 2004-2005
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Kinh tế phát triển ở Đông và Đông Nam á
Bài tập 6: Bài viết chính sách
“Chính sách tiền lương và vấn đề thu nhập của người lao động
trong khu vực Nhà nước”
Trần Thị Thuỳ Linh
Tóm tắt
Chính sách tiền lương và thu nhập của người lao động luôn là vấn đề được dư luận quan
tâm. Trong thời gian gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng thường đề cập đến
quyết định tăng lương cho người lao động trong khu vực Nhà nước. Tuy thời gian thực
hiện chính sách cải cách tiền lương đã hơn 10 năm nhưng chính sách này chưa thực sự
có tác động mạnh đến việc cải thiện thu nhập cho người lao động. Nội dung bài viết này
xoay quanh việc đánh giá chính sách tiền lương đã và đang được áp dụng tại Việt Nam.
Từ đó, bài viết cũng xin đưa ra một số giải pháp cho chính sách tiền lương.
1
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Học kỳ thu
Niên khoá 2004-2005
Việt Nam là một trong những nước có mức thu nhập bình quân đầu người thấp. Theo thời
gian, cùng với sự tăng trưởng kinh tế sự cách biệt về thu nhập giữa các đối tượng trong xã
hội ngày càng gia tăng nhất là sự chênh lệch về thu nhập trong khu vực Nhà nước so với
khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. ở Việt Nam, chuyện một công
chức sống được bằng lương là điều không tưởng. Lương chưa trở thành nguồn thu nhập
chính cho người lao động mà người lao động chủ yếu dựa vào các nguồn thu nhập ngoài
lương. Mặc dù chính phủ đã áp dụng nhiều chính sách nhằm cải thiện tình hình trên
nhưng vẫn chưa đạt kết quả vì các chính sách về tiền lương của Nhà nước còn nhiều bất
cập.
Thu nhập của người lao động trong khu vực Nhà nước: cao hay thấp?
Mọi người đều phải thừa nhận rằng với mức lương hiện nay, nhất là những người làm
việc trong khu vực Nhà nước, không thể bảo đảm được cuộc sống bình thường. Chẳng
hạn, một sinh viên đại học hiện nay muốn sống và học tập bình thường phải được chu cấp
tối thiểu 500 và trung bình là 700 ngàn đồng/tháng ở Hà Nội (ở thành phố Hồ Chí Minh
còn cao hơn từ 700 ngàn-1 triệu đồng) tương đương với một cán sự bậc 10 tức là phải làm
việc được 30 năm. Đơn cử như trong ngành giáo dục, theo bảng lương của công chức
giáo dục đại học có rất nhiều bậc lương khác nhau từ bậc 1 của thang giáo viên là 1,92
đến bậc cao nhất của thang chuyên gia cao cấp là 8,5. Một công chức để đạt đến đỉnh cuối
cùng của thang lương phải mất 66 năm trong khi đó thời gian làm việc tối đa cho một
công chức giáo dục là 38 năm- một nghịch lý!
Một điều bất hợp lý nữa là thu nhập ngoài lương lại lớn hơn lương rất nhiều. Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh đã từng nói “Nếu được hỏi “lương của anh (chị) có thể nuôi được anh
(chị) và thêm một người nữa không?” thì tuyệt đại đa số cán bộ, công chức đều trả lời là
“không”. Ngay như lương của tôi đây, nếu theo thang bậc và phụ cấp thì thuộc loại cao
nhất nước, nhưng nếu để nuôi tôi và thêm một người nữa cũng thật là khó khăn. ấy vậy
mà cán bộ công chức nào cũng sống được cả, mà lại sống đàng hoàng. Ai cũng xây được
nhà cửa. Điều này cho thấy tổng số tiền và của cải trong xã hội là nhiều và nó đang
“chạy” từ chỗ này sang chỗ khác, từ người này sang người khác. Vấn đề bây giờ là phải
làm sao điều chỉnh cho được các khoản thu nhập ngoài lương”.
Lương bổng là một vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp. Cái khó là chiếc bánh ngân sách chỉ
có chừng ấy nhưng làm sao phải chia cho hợp lý. Làm sao để những người hưởng lương
từng bước có thể sống được bằng lương; kích thích sản xuất, kinh doanh phát triển. Theo
cách hiểu đơn thuần, tiền lương phải trở thành thước đo giá trị lao động, bảo đảm tái sản
xuất sức lao động, là nguồn thu nhập chính của người lao động gắn với năng suất, chất
lượng, hiệu quả của công việc. Từ năm 1993, khi chính sách tiền lương được ban hành
mức tiền lương của người lao động cũng chưa đủ trang trải cho những nhu cầu thiết yếu
và không phải là nguồn thu nhập chính của người lao động. Đây chính là nguyên nhân
2
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Học kỳ thu
Niên khoá 2004-2005
gây ra nạn “chảy máu chất xám” trong khu vực Nhà nước và cũng là nguyên nhân tham
nhũng của một bộ phân cán bộ và công chức. Hệ quả là người lao động không quan tâm
đến tiền lương mà chú trọng đến phần thu nhập ngoài lương. Tiền lương không trở thành
động lực khuyến khích người lao động làm việc và tình trạng “chân ngoài dài hơn chân
trong” trở nên phổ biến. Trong khi đó, chính sách mở cửa nền kinh tế đã khuyến khích sự
phát triển của khu vực tư nhân và sự ra đời của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện
tượng người lao động chuyển từ khu vực Nhà nước sang khu vực khác để làm việc mong
có mức thu nhập cao hơn trở thành phổ biến. Xin đưa ra một sự so sánh để thấy được sự
mất cân bằng về thu nhập giữa các khu vực. Tại thời điểm năm 2002, lương của một giáo
sư với hệ số lương là 7,1 nhân với khởi điểm lương khoảng 2 triệu đồng. Số tiền này chỉ
bằng lương bảo vệ cho công ty liên doanh tại Hà Nội1. Mặc dù mọi sự so sánh là khập
khiễng nhưng những con số biết nói này khiến cho chúng ta phải đặt câu hỏi về sự bất ổn
trong chính sách tiền lương.
Cải cách tiền lương: vấn đề nan giải
Để giải quyết tình trạng trên, Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách nhằm nâng cao mức
lương của người lao động làm việc trong khu vực hưởng lương từ ngân sách. Chính sách
tiền lương đang được thực hiện là kết quả của đợt cải cách tiền lương năm 1993. ...